Kinh Pháp Cú
Dhammapada
Chuyển vần lục bát :
Nhuận Tâm Nguyễn Kim Cương
Bản gốc :
Hoà Thượng Thích Thiện Siêu dịch từ bản chữ Hán
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch từ bản chữ Pali
Phật lịch 2564
Lời Giới Thiệu
của Hòa Thượng Thích Như Điển
Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
Đệ Nhị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu
Phó Chủ Tịch Hội Đồng Tăng Già Thế Giới
Cho đến năm 2020, Kinh Pháp Cú đã được dịch ra tiếng Việt bằng nhiều nguồn khác nhau. Ví dụ như của cố Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch thẳng từ tiếng Pali sang Việt ngữ gồm 423 bài kệ trong 26 phẩm và có kệ gồm 4 câu 5 chữ, có kệ 5 câu 5 chữ và cũng có kệ 7 câu 5 chữ. Trong khi đó bản dịch của cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu thì được dịch từ chữ Hán sang Việt ngữ cũng gồm có 26 phẩm và 423 bài kệ tất cả.
Trên trang nhà của thuvienhoasen.com gần đây có Đạo Hữu Nguyên Thuận dịch sang tiếng Việt, bản dịch từ bản tiếng Phạn của Pháp Sư Chướng Ngại và những vị khác ở thế kỷ thứ 3 thì chia ra làm hai quyển thượng và hạ. Quyển thượng có từ phẩm thứ 1 đến phẩm thứ 21 và quyển hạ từ phẩm thứ 22 đến phẩm thứ 39. Mỗi phẩm lại có nhiều bài kệ và mỗi bài kệ có 4 câu; mỗi câu 5 chữ. Ngoài ra thì cũng có Kinh Pháp Cú do Ngài Narada Maha Thera (người Tích Lan) dịch từ Pali sang tiếng Anh.
Sang trang nhà quangduc.com ở Úc, do Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng điều hành, chúng ta thấy có Hòa Thượng Thích Minh Hiếu Trụ Trì Tổ Đình Minh Quang tại Sydney, Úc Châu đã căn cứ theo bản dịch Kinh Pháp Cú của cố Hòa Thượng Thích Minh Châu chuyển sang thể thơ lục bát thuần Việt. Ở đây chúng tôi xin trích một phẩm đầu để xem cách dịch ra thơ lục bát của Hòa Thượng Thích Minh Hiếu và sẽ đối chiếu với bản dịch lục bát của Đạo Hữu Nhuận Tâm ở phần phía dưới đây.
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu.
Phẩm Song Yếu :
1. Tâm dẫn đầu mọi pháp
Tâm chủ, tâm tạo tác
Nếu nói hay hành động
Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ theo ta
Như xe, theo vật kéo.
Tôi có được nhân duyên là đọc hết 423 bài kệ nầy và mỗi bài kệ gồm 4 hay 6 câu theo thể thơ lục bát đặc thù của Việt Nam mà trên thế giới hầu như chưa thấy nước nào có. Ví dụ như của Nhật Bản có thơ Haiku thường thì 3 hay 5 chữ và lối gieo vần không giống với lối gieo vần của thơ tiếng Việt. Hoặc giả thơ Đường luật của Trung Hoa gồm có thơ ngũ ngôn tứ tuyệt (5 chữ, 4 câu) hay thất ngôn bát cú (7 chữ, 8 câu). Thơ nầy thì dùng theo niêm luật rất khó; một bài thơ phải gồm đủ hai câu đề, hai câu thực, hai câu luận và hai câu kết. Dĩ nhiên là cũng phải vần với nhau, mới trở thành một bài thơ Đường luật được.
Đạo Hữu Nhuận Tâm là đệ tử tại gia quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới với Thượng Tọa Thích Quảng Đạo, đương kim Trụ trì chùa Khánh Anh tại Évry, Pháp Quốc, đã dành nhiều tâm lực và vật lực để hoàn thành bản Kinh Pháp Cú vần lục bát nầy. Thiết nghĩ đây là một việc làm quá sức hữu ích cho phần tâm thức của mọi người con Phật, dầu cho tu và học theo truyền thống nào của Nam, Bắc Tông hay Kim Cang thừa đi nữa thì cũng đều ích lợi cả.
Nay tôi xin trang trọng giới thiệu tác phẩm thi hóa Kinh Pháp Cú nầy của Đạo Hữu Nhuận Tâm Nguyễn Kim Cương và mong rằng chư Tôn Đức Tăng Ni cũng như Quý Đạo Hữu Phật Tử sau khi đọc xong tất cả 423 bài kệ nầy rồi sẽ gặp được nhiều duyên lành trong vấn đề tu, học cũng như hoằng pháp trên mọi nẻo đăng trình ở trên thế gian, mà Đức Phật đã chỉ dạy cặn kẽ qua quyển Kinh giá trị nầy.
Viết xong lời giới thiệu vào ngày 6 tháng 12 năm 2020 tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc.
Hòa Thượng Thích Như Điển
của Hòa Thượng Thích Như Điển
Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
Đệ Nhị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu
Phó Chủ Tịch Hội Đồng Tăng Già Thế Giới
Cho đến năm 2020, Kinh Pháp Cú đã được dịch ra tiếng Việt bằng nhiều nguồn khác nhau. Ví dụ như của cố Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch thẳng từ tiếng Pali sang Việt ngữ gồm 423 bài kệ trong 26 phẩm và có kệ gồm 4 câu 5 chữ, có kệ 5 câu 5 chữ và cũng có kệ 7 câu 5 chữ. Trong khi đó bản dịch của cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu thì được dịch từ chữ Hán sang Việt ngữ cũng gồm có 26 phẩm và 423 bài kệ tất cả.
Trên trang nhà của thuvienhoasen.com gần đây có Đạo Hữu Nguyên Thuận dịch sang tiếng Việt, bản dịch từ bản tiếng Phạn của Pháp Sư Chướng Ngại và những vị khác ở thế kỷ thứ 3 thì chia ra làm hai quyển thượng và hạ. Quyển thượng có từ phẩm thứ 1 đến phẩm thứ 21 và quyển hạ từ phẩm thứ 22 đến phẩm thứ 39. Mỗi phẩm lại có nhiều bài kệ và mỗi bài kệ có 4 câu; mỗi câu 5 chữ. Ngoài ra thì cũng có Kinh Pháp Cú do Ngài Narada Maha Thera (người Tích Lan) dịch từ Pali sang tiếng Anh.
Sang trang nhà quangduc.com ở Úc, do Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng điều hành, chúng ta thấy có Hòa Thượng Thích Minh Hiếu Trụ Trì Tổ Đình Minh Quang tại Sydney, Úc Châu đã căn cứ theo bản dịch Kinh Pháp Cú của cố Hòa Thượng Thích Minh Châu chuyển sang thể thơ lục bát thuần Việt. Ở đây chúng tôi xin trích một phẩm đầu để xem cách dịch ra thơ lục bát của Hòa Thượng Thích Minh Hiếu và sẽ đối chiếu với bản dịch lục bát của Đạo Hữu Nhuận Tâm ở phần phía dưới đây.
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu.
Phẩm Song Yếu :
1. Tâm dẫn đầu mọi pháp
Tâm chủ, tâm tạo tác
Nếu nói hay hành động
Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ theo ta
Như xe, theo vật kéo.
Thi hóa: Hòa Thượng Thích Minh Hiếu như sau:
1. “Thế gian tâm vốn đứng đầu
Là duyên kết nối là cầu tương giao
Nhiễm tâm sóng biển xôn xao
Sóng vang gào thét, nước trào bọt trôi.
Khổ đau trong kiếp luân hồi
Xe theo vật kéo đền bồi ngựa trâu.”
1. “Thế gian tâm vốn đứng đầu
Là duyên kết nối là cầu tương giao
Nhiễm tâm sóng biển xôn xao
Sóng vang gào thét, nước trào bọt trôi.
Khổ đau trong kiếp luân hồi
Xe theo vật kéo đền bồi ngựa trâu.”
Đạo Hữu Nhuận Tâm thi hóa theo thể lục bát như sau:
1. “Dẫn đầu các pháp là Tâm
Tâm kia là chủ, là nguồn tạo sinh
Nói năng, hành động thường tình
Với Tâm ô nhiễm , nghiệp sinh khổ sầu
Tâm ô nhiễm, khổ theo sau
Như xe bò kéo lăn vào dấu chân.”
1. “Dẫn đầu các pháp là Tâm
Tâm kia là chủ, là nguồn tạo sinh
Nói năng, hành động thường tình
Với Tâm ô nhiễm , nghiệp sinh khổ sầu
Tâm ô nhiễm, khổ theo sau
Như xe bò kéo lăn vào dấu chân.”
Tôi có được nhân duyên là đọc hết 423 bài kệ nầy và mỗi bài kệ gồm 4 hay 6 câu theo thể thơ lục bát đặc thù của Việt Nam mà trên thế giới hầu như chưa thấy nước nào có. Ví dụ như của Nhật Bản có thơ Haiku thường thì 3 hay 5 chữ và lối gieo vần không giống với lối gieo vần của thơ tiếng Việt. Hoặc giả thơ Đường luật của Trung Hoa gồm có thơ ngũ ngôn tứ tuyệt (5 chữ, 4 câu) hay thất ngôn bát cú (7 chữ, 8 câu). Thơ nầy thì dùng theo niêm luật rất khó; một bài thơ phải gồm đủ hai câu đề, hai câu thực, hai câu luận và hai câu kết. Dĩ nhiên là cũng phải vần với nhau, mới trở thành một bài thơ Đường luật được.
Đạo Hữu Nhuận Tâm là đệ tử tại gia quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới với Thượng Tọa Thích Quảng Đạo, đương kim Trụ trì chùa Khánh Anh tại Évry, Pháp Quốc, đã dành nhiều tâm lực và vật lực để hoàn thành bản Kinh Pháp Cú vần lục bát nầy. Thiết nghĩ đây là một việc làm quá sức hữu ích cho phần tâm thức của mọi người con Phật, dầu cho tu và học theo truyền thống nào của Nam, Bắc Tông hay Kim Cang thừa đi nữa thì cũng đều ích lợi cả.
Nay tôi xin trang trọng giới thiệu tác phẩm thi hóa Kinh Pháp Cú nầy của Đạo Hữu Nhuận Tâm Nguyễn Kim Cương và mong rằng chư Tôn Đức Tăng Ni cũng như Quý Đạo Hữu Phật Tử sau khi đọc xong tất cả 423 bài kệ nầy rồi sẽ gặp được nhiều duyên lành trong vấn đề tu, học cũng như hoằng pháp trên mọi nẻo đăng trình ở trên thế gian, mà Đức Phật đã chỉ dạy cặn kẽ qua quyển Kinh giá trị nầy.
Viết xong lời giới thiệu vào ngày 6 tháng 12 năm 2020 tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc.
Hòa Thượng Thích Như Điển
Nam Mô A Di Đà Phật
Con xin thành kính tri ân :
Hòa Thượng Thích Như Điển
Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
Thượng Tọa Thích Quảng Đạo
Trụ Trì Chùa Khánh Anh, Évry, Pháp Quốc
mặc dầu rất bận rộn Phật sự, đã hoan hỷ dành thời giờ để nhiệt tâm chỉ dẫn, khích lệ, đọc, duyệt bản Kinh Pháp Cú vần lục bát này và hết lòng giúp đỡ cho sách Kinh được hình thành và tới tay các Phật tử.
Con, Nhuận Tâm Nguyễn Kim Cương
Con xin thành kính tri ân :
Hòa Thượng Thích Như Điển
Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
Thượng Tọa Thích Quảng Đạo
Trụ Trì Chùa Khánh Anh, Évry, Pháp Quốc
mặc dầu rất bận rộn Phật sự, đã hoan hỷ dành thời giờ để nhiệt tâm chỉ dẫn, khích lệ, đọc, duyệt bản Kinh Pháp Cú vần lục bát này và hết lòng giúp đỡ cho sách Kinh được hình thành và tới tay các Phật tử.
Con, Nhuận Tâm Nguyễn Kim Cương
Trong hơn 40 năm giảng Pháp, số lượng bài giảng của Đức Phật cực kỳ lớn. Ngay sau khi Phật nhập diệt, 500 Đại đệ tử đã tập hợp ‘Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất’ nhằm kiểm điểm lại các bài giảng của vị Bổn sư. Vì phương tiện viết và ghi chép thời đó còn rất sơ khai, tất cả các đệ tử có mặt đã tụng thuộc lòng để bảo tồn nội dung thống nhất các bài giảng.
Hơn 400 năm sau Đại hội kết tập kinh điển này cùng 3 Đại hội kết tập kinh điển nữa, các bài giảng của Đức Phật mới được ghi lại bằng chữ viết, với chữ Pali (Phật giáo Nam truyền) hoặc với chữ Phạn (Phật giáo Bắc truyền). Sách Kinh từ đó ra đời và một số vẫn còn được lưu trữ tới ngày nay. Nếu như Phật giáo Nam truyền vẫn theo kinh điển bằng chữ Pali qua nhiều thế hệ, thì Phật giáo Bắc truyền khi đến Trung Hoa và Tây Tạng , các bản Kinh chữ Phạn đã được dịch sang chữ Hán và chữ Tây Tạng.
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) này (hoặc ‘Kinh Lời Vàng’ hay còn được gọi là ‘Lời Phật Dạy’) là quyển kinh thứ 2 trong 15 quyển kinh thuộc ‘Tiểu Bộ Kinh’ trong Kinh tạng Pali gồm tất cả 5 bộ kinh. Kinh Pháp Cú tạng Pali có 423 câu kinh, được sắp xếp trong 26 phẩm, trong khi Kinh Pháp Cú tạng Hán (dịch từ chữ Phạn) có thêm 13 phẩm nữa, tất cả là 39 phẩm với 752 câu kinh. Đây là một quyển Kinh Phật đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Riêng phần Anh ngữ, đã có khoảng 80 bản dịch của các học giả, các đại học danh tiếng Anh, Mỹ. Tại Việt Nam, Kinh Pháp Cú tạng Pali đã được Hòa thượng Thích Thiện Siêu (1921-2001), cựu Viện trưởng Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức-Nha Trang, là người đầu tiên đã dịch toàn bộ Kinh này sang tiếng Việt theo thể văn xuôi vào năm 1959, căn cứ trên bản dịch từ chữ Pali ra Hán văn của Pháp sư Liễu Tham. Đến năm 1969, Hòa thượng Thích Minh Châu (1918-2012), cựu Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, Saigon, đã dịch Kinh Pháp Cú từ nguyên bản chữ Pali sang tiếng Việt, theo thể kệ 5 chữ.
Đó là hai bản Kinh Pháp Cú tiếng Việt được phổ biến rộng rãi nhất. Ngoài ra, thư tịch trên Internet có đề cập tới các bản bằng tiếng Việt theo các thể tản văn, thể thơ Việt như lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể v.v. của nhiều tu sĩ, cư sĩ hay thi sĩ, nhưng các bản này vẫn chưa được gom góp đầy đủ trên Internet để dễ dàng truy cập và tìm hiểu xem bắt nguồn từ bản gốc nào.
Do một cơ duyên lành đặc biệt, chúng tôi đã tự nguyện làm công việc chuyển bản tiếng Việt Kinh Pháp Cú tạng Pali ra vần lục bát, dù biết mình không phải là thi sĩ hay chuyên gia về Phật học. Mục đích không phải để trình bày thêm một tập ‘thơ’ vì đã có nhiều tập thơ của các tu sĩ hay thi sĩ nổi tiếng. Và cũng vì chúng tôi quan niệm cõi ‘kinh’ và cõi ‘thơ’ là hai cõi khác biệt, không thể nào ‘kinh hoá’ thơ và lại càng không thể ‘thi hóa’ kinh. Đây chỉ là một cố gắng diễn đạt ý kinh với vần điệu lục bát, một thể điệu đặc biệt Việt Nam, đã có ít ra là từ thế kỷ 16 qua bản chứng tích “Cổ châu Pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục” do thiền sư Pháp Tính (1470-1550) dịch ra tiếng Nôm qua thể lục bát, và thể này đã đi sâu vào tâm thức người Việt với cả một kho tàng ca dao, dân ca, hát ru con đã được được đặt nền móng trên thể loại này. Nguyện vọng chính là mong sao đưa được ý kinh vào tâm khảm mọi người một cách dễ dàng với thể loại quen thuộc này, để ý kinh thấm nhuần vào lòng người, càng nhiều người càng tốt, một cách tự nhiên, như câu ca dao hay câu hát ru con. Đồng thời, cũng để diễn đạt ý kinh theo cảm nhận của mình khi đọc bản dịch văn xuôi của Hòa thượng Thích Thiện Siêu.
Phương thức làm việc là chúng tôi cố tìm hiểu, thấm nhuần ý kinh với tầm hiểu biết hạn hẹp của mình và sau đó kiểm lại với bản dịch theo thể kệ 5 chữ của Hòa thượng Thích Minh Châu xem chỗ nào đã có thể hiểu sai lạc hay chưa đúng ý kinh. Như vậy cũng kiểm chứng luôn được sự đồng nhất của ý kinh qua hai bản dịch, một thông qua bản chữ Hán, một trực tiếp từ bản chữ Pali. Sau đó, với tất cả tâm thành, cố gắng chuyển đạt những gì mình lãnh hội, cảm nhận được ra vần lục bát, cố giữ vần qua 423 câu Kinh và 26 phẩm để giữ tánh thuần nhất của quyển Kinh và giúp dễ nhớ toàn bộ Kinh. Và như đã nói, hoàn toàn không chú trọng vào tính ‘thơ’, mà cố gắng diễn đạt cho thật sát với ý kinh, tránh không thêm ý nào khác, dùng những chữ dễ hiểu, thông dụng, mộc mạc với những câu giản dị dùng thường ngày, trừ khi phải đề cập tới những ý niệm đặc thù của Phật giáo thì giữ nguyên tên gọi, để có thể được truy cứu hoặc diễn giải sâu rộng hơn.
Những lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú thật thực tiễn, dễ ứng dụng trong đời sống đạo đức hàng ngày cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Sau hơn 2500 năm, những lời dạy đó vẫn hiện đại một cách khác thường, khiến cho người đọc có cảm tưởng như đang được Đức Phật giáo hóa trực tiếp trong thời đại này, với những ý tưởng thực dụng, gần gũi, thân thiết, dễ hiểu thì cũng thật dễ hiểu, mà vẫn mênh mông, bao la, đợi chờ những suy tư sâu sắc.
Mong rằng bản chuyển vần lục bát Kinh Pháp Cú này mang được những ý tưởng giáo hoá của Đức Phật tới gần thêm được càng nhiều Phật tử càng tốt. Đó là tâm nguyện của chúng tôi.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Sceaux, năm Canh Tý (2020), tiết Bạch Lộ,
Phật lịch 2564
Nhuận Tâm Nguyễn Kim Cương
Hơn 400 năm sau Đại hội kết tập kinh điển này cùng 3 Đại hội kết tập kinh điển nữa, các bài giảng của Đức Phật mới được ghi lại bằng chữ viết, với chữ Pali (Phật giáo Nam truyền) hoặc với chữ Phạn (Phật giáo Bắc truyền). Sách Kinh từ đó ra đời và một số vẫn còn được lưu trữ tới ngày nay. Nếu như Phật giáo Nam truyền vẫn theo kinh điển bằng chữ Pali qua nhiều thế hệ, thì Phật giáo Bắc truyền khi đến Trung Hoa và Tây Tạng , các bản Kinh chữ Phạn đã được dịch sang chữ Hán và chữ Tây Tạng.
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) này (hoặc ‘Kinh Lời Vàng’ hay còn được gọi là ‘Lời Phật Dạy’) là quyển kinh thứ 2 trong 15 quyển kinh thuộc ‘Tiểu Bộ Kinh’ trong Kinh tạng Pali gồm tất cả 5 bộ kinh. Kinh Pháp Cú tạng Pali có 423 câu kinh, được sắp xếp trong 26 phẩm, trong khi Kinh Pháp Cú tạng Hán (dịch từ chữ Phạn) có thêm 13 phẩm nữa, tất cả là 39 phẩm với 752 câu kinh. Đây là một quyển Kinh Phật đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Riêng phần Anh ngữ, đã có khoảng 80 bản dịch của các học giả, các đại học danh tiếng Anh, Mỹ. Tại Việt Nam, Kinh Pháp Cú tạng Pali đã được Hòa thượng Thích Thiện Siêu (1921-2001), cựu Viện trưởng Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức-Nha Trang, là người đầu tiên đã dịch toàn bộ Kinh này sang tiếng Việt theo thể văn xuôi vào năm 1959, căn cứ trên bản dịch từ chữ Pali ra Hán văn của Pháp sư Liễu Tham. Đến năm 1969, Hòa thượng Thích Minh Châu (1918-2012), cựu Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, Saigon, đã dịch Kinh Pháp Cú từ nguyên bản chữ Pali sang tiếng Việt, theo thể kệ 5 chữ.
Đó là hai bản Kinh Pháp Cú tiếng Việt được phổ biến rộng rãi nhất. Ngoài ra, thư tịch trên Internet có đề cập tới các bản bằng tiếng Việt theo các thể tản văn, thể thơ Việt như lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể v.v. của nhiều tu sĩ, cư sĩ hay thi sĩ, nhưng các bản này vẫn chưa được gom góp đầy đủ trên Internet để dễ dàng truy cập và tìm hiểu xem bắt nguồn từ bản gốc nào.
Do một cơ duyên lành đặc biệt, chúng tôi đã tự nguyện làm công việc chuyển bản tiếng Việt Kinh Pháp Cú tạng Pali ra vần lục bát, dù biết mình không phải là thi sĩ hay chuyên gia về Phật học. Mục đích không phải để trình bày thêm một tập ‘thơ’ vì đã có nhiều tập thơ của các tu sĩ hay thi sĩ nổi tiếng. Và cũng vì chúng tôi quan niệm cõi ‘kinh’ và cõi ‘thơ’ là hai cõi khác biệt, không thể nào ‘kinh hoá’ thơ và lại càng không thể ‘thi hóa’ kinh. Đây chỉ là một cố gắng diễn đạt ý kinh với vần điệu lục bát, một thể điệu đặc biệt Việt Nam, đã có ít ra là từ thế kỷ 16 qua bản chứng tích “Cổ châu Pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục” do thiền sư Pháp Tính (1470-1550) dịch ra tiếng Nôm qua thể lục bát, và thể này đã đi sâu vào tâm thức người Việt với cả một kho tàng ca dao, dân ca, hát ru con đã được được đặt nền móng trên thể loại này. Nguyện vọng chính là mong sao đưa được ý kinh vào tâm khảm mọi người một cách dễ dàng với thể loại quen thuộc này, để ý kinh thấm nhuần vào lòng người, càng nhiều người càng tốt, một cách tự nhiên, như câu ca dao hay câu hát ru con. Đồng thời, cũng để diễn đạt ý kinh theo cảm nhận của mình khi đọc bản dịch văn xuôi của Hòa thượng Thích Thiện Siêu.
Phương thức làm việc là chúng tôi cố tìm hiểu, thấm nhuần ý kinh với tầm hiểu biết hạn hẹp của mình và sau đó kiểm lại với bản dịch theo thể kệ 5 chữ của Hòa thượng Thích Minh Châu xem chỗ nào đã có thể hiểu sai lạc hay chưa đúng ý kinh. Như vậy cũng kiểm chứng luôn được sự đồng nhất của ý kinh qua hai bản dịch, một thông qua bản chữ Hán, một trực tiếp từ bản chữ Pali. Sau đó, với tất cả tâm thành, cố gắng chuyển đạt những gì mình lãnh hội, cảm nhận được ra vần lục bát, cố giữ vần qua 423 câu Kinh và 26 phẩm để giữ tánh thuần nhất của quyển Kinh và giúp dễ nhớ toàn bộ Kinh. Và như đã nói, hoàn toàn không chú trọng vào tính ‘thơ’, mà cố gắng diễn đạt cho thật sát với ý kinh, tránh không thêm ý nào khác, dùng những chữ dễ hiểu, thông dụng, mộc mạc với những câu giản dị dùng thường ngày, trừ khi phải đề cập tới những ý niệm đặc thù của Phật giáo thì giữ nguyên tên gọi, để có thể được truy cứu hoặc diễn giải sâu rộng hơn.
Những lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú thật thực tiễn, dễ ứng dụng trong đời sống đạo đức hàng ngày cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Sau hơn 2500 năm, những lời dạy đó vẫn hiện đại một cách khác thường, khiến cho người đọc có cảm tưởng như đang được Đức Phật giáo hóa trực tiếp trong thời đại này, với những ý tưởng thực dụng, gần gũi, thân thiết, dễ hiểu thì cũng thật dễ hiểu, mà vẫn mênh mông, bao la, đợi chờ những suy tư sâu sắc.
Mong rằng bản chuyển vần lục bát Kinh Pháp Cú này mang được những ý tưởng giáo hoá của Đức Phật tới gần thêm được càng nhiều Phật tử càng tốt. Đó là tâm nguyện của chúng tôi.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Sceaux, năm Canh Tý (2020), tiết Bạch Lộ,
Phật lịch 2564
Nhuận Tâm Nguyễn Kim Cương
Phẩm Song Yếu (YAMAKAVAGGO) #1
1
Dẫn đầu các pháp là Tâm Tâm kia là chủ, là nguồn tạo sinh Nói năng, hành động thường tình Với Tâm ô nhiễm, nghiệp sinh khổ sầu Tâm ô nhiễm, khổ theo sau Như xe bò kéo lăn vào dấu chân 2 Dẫn đầu các pháp là Tâm Tâm kia là chủ, là nguồn tạo sinh Nói năng, hành động thường tình Với Tâm thanh tịnh, nghiệp sinh vui vầy Như hình với bóng sánh vai Tâm thanh tịnh với an vui, bóng, hình 3 Đây kìa nó đánh chửi mình Nó còn phá hoại, cướp giành của ta Niệm này nếu chẳng rời ra Hận thù kia thật khó mà nguôi ngoai 4 Đây kìa nó đánh chửi ta Nó còn phá hoại, cướp pha của mình Không màng niệm ấy, mặc tình An nhiên, thanh tịnh sẽ sinh hết thù 5 Hận thù khó diệt hận thù Suốt đời không thể hết thù hận đâu Từ bi mới diệt hận sâu Đó là định luật rất mầu ngàn xưa 6 Ai kia hiểu lẽ đời chưa Thân vô thường cũng chỉ chờ hủy thôi Mà còn tranh luận lắm lời Hiểu ra, tranh luận tức thời tiêu tan 7 Ai kia khoái lạc mê man Thân mình tưởng sạch, các căn chẳng trì Uống, ăn chẳng tiết độ gì Trây lười, biếng nhác, nói chi tinh cần Ma kia dễ nhiếp phục Tâm Như cuồng phong uốn cành mềm tả tơi 8 Ai mà khoái lạc xa rời Chăm lo nhiếp hộ, trau dồi các căn Giữ gìn, tiết độ uống, ăn Siêng năng tinh tiến, vững an một lòng Tựa như núi trước cuồng phong An nhiên tự tại, dễ phòng chống Ma 9 Ai kia mặc áo cà sa Tâm còn tham dục, rầy rà chưa xong Vẫn không tự chế thực lòng Cà sa chẳng xứng, thà rằng bỏ đi 10 Ai mà dứt dục tham đi Giữ gìn giới luật, thủ trì nghiêm minh Sống chân thật, tự chế mình Cà sa áo ấy xứng tình mặc lên 11 Không chân thật, tưởng là chân Đến khi chân thật, lại lầm là không Tư duy bất chính, tà tâm Làm sao đạt được thật chân ở đời 12 Không chân, biết không chân rồi Gặp chân thật, biết tức thời là chân Do tư duy đúng, chánh ngay Thật chân mau đạt, mau hay thể nào 13 Mái nhà vụng lợp, mưa vào Tâm không tu, chẳng khác nào mái kia Dục tham xâm nhập tức thì Như mưa đổ xuống, lấy gì chống che 14 Mái nhà khéo lợp, khéo che Mưa dù nặng hạt, khó bề lọt vô Tâm kia khéo giữ, khéo tu Thời tham dục ắt khó bề nhập xâm 15 Đời này buồn, muốn thoát thân Đã làm điều ác, sẽ buồn đời sau Do nhìn nghiệp ác, buồn sao Sinh ra khổ não, lo âu hai đời 16 Đời này vui vẻ, thảnh thơi Đời sau cũng vậy, hai đời vui thay Do nhìn thiện nghiệp tạo xây Nên sinh an lạc, tâm này lạc an 17 Đời này cực khổ, kêu than Đời sau cũng vậy, lầm than hai đời Buồn vì nghiệp ác tạo rồi Đọa thành ác thú, tức thời khổ thay 18 Đời này hoan hỷ, vui vầy Đời sau hoan hỷ cũng tày kém đâu Vui làm thiện, hưởng phước mầu Được sanh vào cõi lành đâu dễ gì 19 Dù cho kinh tụng vô kỳ Mà buông lung, chẳng thiết chi thực hành Như chăn bò của tha nhân Đếm bò cho chủ, nào phần của ta Trì hành Giáo Pháp lơ là Hạnh Sa môn sẽ khó mà hưởng chi 20 Dù cho ít tụng kinh đi Nhưng luôn y Giáo, hành trì chánh chân Tham, sân, si, chẳng bận lòng Bỏ xa thế dục, thoát vòng u mê Dù nơi cõi nọ, đời kia Sa môn hạnh vẫn thỏa thuê thấm nhuần |
Phẩm Không Phóng Dật (APPAMADAVAGGO)#2
21
Không buông lung, đạt Niết Bàn Buông lung phóng dật, một đàng chết thôi Không buông lung, thoát luân hồi Buông lung phóng dật, sống đời thây ma 22 Lẽ này ai đó hiểu ra Gắng không phóng dật, thời là trí nhân Giữ cho hoan hỷ tâm thần A La Hán quả dự phần thiếu chi 23 Tu thiền định phải kiên trì Tịnh tu tinh tấn, thoát ly ách nàn Vô Minh, Mê, Kiến, Dục tham Dứt trừ thời đạt Niết Bàn cao thâm 24 Không buông lung, cố gắng luôn Giữ thân tịnh hạnh, giữ tâm phục điều Pháp cao, Chánh Niệm noi theo Tiếng lành, tiếng tốt càng nhiều, càng tăng 25 Không buông lung, cố gắng công Tự điều, khắc chế, vững lòng chẳng nao Trí nhân tự tạo đảo cao Tham, sân, si, chẳng sóng nào vượt qua 26 Kẻ ngu thiếu trí, ám ma Sống đời phóng dật, tâm tà rong chơi Trí nhân chẳng dám buông lơi Tâm như báu vật, không ngơi canh chừng 27 Đắm chìm phóng dật, buông lung Say mê dục lạc, sống không vui gì Hãy lo thiền định, tu trì Thời an lạc lớn tức thì đến ngay 28 Buông lung trừ diệt đêm ngày Trí nhân hết sợ, hạnh này tốt sao Tựa lên lầu Trí Tuệ cao Thấy người ngu khổ âu sầu dưới chân 29 Tinh cần giữa đám buông lung Luôn luôn tỉnh thức giữa rừng u mê Như con tuấn mã mạnh phi Trí nhân bỏ đám ngựa kia yếu hèn 30 Đế Thích làm chủ Chư Thiên Do không phóng dật, không niềm buông lung Không buông lung, được khen sùng Buông lung bị trách, với lòng chê khinh 31 Tỳ Kheo vui chẳng buông lung Rất e phóng dật, nên luôn dè chừng Tỳ Kheo như ngọn lửa hồng Đốt thiêu phiền não mấy từng cũng xong 32 Tỳ Kheo ưa chẳng buông lung E dè phóng dật, nên luôn giữ gìn Niết Bàn kia đó gần bên Quyết không để đọa lạc thêm một lần |
Phẩm Tâm (CITTAVAGGO)#3
33
Phàm phu dao động trong Tâm Tâm mà hoảng hốt, khó mong phục thuần Trí nhân giữ chính trực Tâm Như người thợ giỏi uốn tên khéo gò 34 Cá kia bị quẳng lên bờ Còn lo vùng vẫy, ơ hờ được sao Tâm kia phải sợ thế nào Để lo vùng vẫy, thoát trào ác Ma 35 Phàm phu, ngũ dục bê tha Luôn luôn dao động, khó mà định Tâm Hãy lo điều phục được Tâm Điều Tâm, an lạc sẽ tầm đến ngay 36 Tâm theo ngũ dục cuồng quay Thật là khó giữ vì hay đổi hình Trí nhân phòng hộ Tâm mình Hộ Tâm tất được an bình, an vui 37 Tâm phàm lén lút, đơn côi Ẩn sâu hang Thức, xa xôi vô hình Ai điều phục được Tâm mình Hết còn trói buộc, thoát xiềng ác Ma 38 Không an định được Tâm ta Làm sao có thể hiểu ra Pháp mầu Lòng tin kiên cố có đâu Khiến cho trí tuệ làm sao viên thành 39 Tâm kia thoát dục, tịnh thanh Không tham, không hận, thù, ganh chẳng hề Vượt qua thiện, ác đôi bề (*) Là người thức tỉnh, không hề sợ chi 40 Thân này dễ vỡ như ly Nhưng giam Tâm tựa thành trì, khó ra Dùng gươm trí huệ thắng Ma Cảnh thiền không nhiễm, vẫn ra sức cầu (*) 41 Thân này sẽ chẳng được lâu Vật vô thường sẽ nằm sâu đất liền Vô Tâm, vô thức triền miên Khác gì khúc gỗ, cũng hiềm bỏ ru 42 Kẻ thù ác hại kẻ thù Oan gia ác hại, yểm trù oan gia Chẳng bằng Tâm niệm hướng tà Theo mười hạnh ác, hại ta vô ngần 43 Dù là cha mẹ, bà con Muốn ta cao thượng, khó lòng giúp ta Nhưng Tâm chánh thiện thắng tà Giúp mình cao thượng, sinh ra tốt lành |
Phẩm Hoa (PUPHAVAGGO)#4
44
Ai đâu hiểu rõ chính mình Hiểu thông bốn giới , giới Thiên am tường Giảng Kinh Pháp Cú rõ ràng Như người thợ khéo làm tràng kết hoa 45 Chỉ người hữu học hiểu ra Hiểu mình, bốn giới, cùng là giới Thiên Giảng Kinh Pháp Cú rõ ràng Như người thợ khéo làm tràng kết hoa 46 Biết thân như bọt nước sa Chỉ là hư huyễn, chỉ là ảo thôi Để tên Ma phải gãy rồi Thời tan cám dỗ, thoát tay tử thần 47 Nhặt hoa dục lạc, si nhân Sinh lòng tham luyến, tâm thần đắm say Tử thần lôi cuốn chẳng hay Như mưa lũ cuốn làng say ngủ vùi 48 Nhặt hoa dục lạc, ai ơi Sinh lòng tham luyến, tâm thời đắm say Đam mê cảnh dục lạc này Coi như đã chết, khó thay cứu nàn 49 Sa môn khất thực tới làng Như ong kia tới bên hàng hoa thơm Xin hoa chút nhụy độ thân Để hoa vẫn giữ vẹn hương sắc ngần 50 Chớ nên dòm lỗi tha nhân Xem người ta đã có làm hay không Hãy xem mình có gắng công Đã làm, hay vẫn chờ trông, chưa làm 51 Ai kia khéo nói lời lành Làm lành không gắng, cũng đành phí thay Không sinh lợi ích, hỡi ai Hoa không hương, đẹp cũng hoài, uổng thôi 52 Như bông hoa vẻ đẹp tươi Có hương thơm tỏa, người đời nâng niu Lời lành khéo nói đủ điều Lại làm lành nữa, sẽ nhiều quả sinh 53 Đống hoa trông chẳng đáng chi Ra công, kết được thiếu gì tràng Hoa Thân này sanh tử chóng qua Thiếu gì việc thiện, nếu ta muốn làm 54 Hương loài hoa quý thật thơm Không bay ngược gió, khôn đường tỏa lan Hương thơm đức hạnh chân nhân Tung bay khắp chốn, xa gần, ngược xuôi 55 Hoa chiên đàn, mạt lỵ tươi Già la, vũ quý, khắp nơi ngạt ngào Hương loài hoa quý thơm sao Thua hương đức hạnh, thanh cao nhất đời 56 Hoa chiên đàn, mạt lỵ tươi Già la, vũ quý, khắp nơi ngát lừng Hương loài hoa quý thơm lung Thua hương đức hạnh, ngát từng giới Thiên 57 Ai kia giới hạnh mãn viên Chẳng hề phóng dật, tâm thiền trụ an Đạt thành Chánh Trí, thực chơn Được chơn giải thoát, chẳng sờn ác Ma 58 Từ trong bùn rác thối hư Ở bên đường lớn, trông nhơ nhớp rồi Hoa sen vẫn nở tốt tươi Hương thơm thanh khiết, lòng người đẹp ru 59 Cũng như trong đám phàm phu Thân tâm ô nhiễm, si ngu đầy tràn Sẽ sanh đệ tử chánh nhân Soi đèn Trí Tuệ, thế gian sáng ngời |
Phẩm Ngu (BALAVAGGO) #5
60
Thức khuya sẽ thấy đêm dài Đi đường mệt mỏi, đường dài làm sao Người Ngu không tỏ Pháp cao Luân hồi bất tận, ngày nào biết xong 61 Chưa tìm được bạn tâm đồng Hơn mình hay cũng phải không thua mình Quyết rằng sẽ sống một mình Không bao giờ kết thân tình người Ngu 62 ‘Của ta’, là ý kẻ Ngu Con ta với của, sanh lo khổ sầu Chính ta còn chẳng có đâu Huống gì con, của, mua sầu mãi ư 63 Người Ngu nếu biết mình ngu Lại là có trí và ngu hết liền Người Ngu tưởng trí, ngu thêm Chí ngu mới thực là tên gọi rồi 64 Người Ngu dẫu sống trọn đời Ở bên người trí, Pháp thời u mê Như thìa múc thuốc, canh kia Làm sao biết vị đắng tê, ngọt bùi 65 Trí nhân, chỉ một khắc thôi Ở bên người trí, Pháp thời hiểu ngay Cũng như thể cái lưỡi này Đắng, bùi, mùi vị biết ngay tức thì 66 Kẻ kia thiếu trí, ngu si Chung đường với kẻ thù thì hại thân Ai gieo ác nghiệp, tích lần Phải theo nghiệp ác, thập phần đắng cay 67 Nghiệp mình làm chẳng chánh ngay Dẫu ăn năn cũng muộn thay, ích gì Dù cho nhuốm lệ sầu bi Tương lai quả đắng khó bề thoát thân 68 Nghiệp mình làm, chánh, thiện, chân Chẳng ăn năn, vẫn thảnh thơi ý, lòng Mừng vui, hoan hỷ vô song Tương lai quả ngọt chẳng mong cũng về 69 Người Ngu tưởng ác ngọt ghê Ác chưa trổ quả, lầm mê mật rồi Đến khi quả ác chín muồi Người Ngu chịu khổ, cam mùi đắng cay 70 Người Ngu ròng rã ăn chay Chỉ dùng ngọn cỏ qua ngày, tháng, năm Một phần mười sáu chẳng bằng Người kia Tứ Đế rõ ràng tỏ thông 71 Một ngày sữa chẳng thể đông Gây ra ác nghiệp, quả không thấy liền Lửa hồng ngún dưới tro đen Tới ngày bùng phát, nhãn tiền báo ngay 72 Tham danh hư ảo, tiếc thay Kẻ Ngu vọng động, đêm ngày khổ cam Tổn thương hạnh phúc vô vàn Làm cho trí tuệ tiêu tan tháng ngày 73 Tham danh mà chẳng xứng tày Muốn ngồi trước Tỷ Kheo ngay lễ đường Muốn uy quyền kẻ chủ trương Muốn người người đến cúng dường cho ta 74 Muốn Tăng cùng tục nghĩ là Việc dù lớn nhỏ, chính ta đã làm Phải theo mệnh lệnh ta ban Người Ngu nghĩ vậy, mạn tràn, tham tăng 75 Một đường tục lụy thế gian Một đường đưa tới Niết Bàn chẳng xa Tỷ Kheo đệ tử Phật Đà Chớ tham thế lợi, phải mà thắng mê Hãy tu hạnh, hãy viễn ly Con đường giải thoát tức thì thấy ra |
Phẩm Hiền Trí (PANDITAVAGGO)#6
76
Người Hiền Trí trách, chỉ ta Chỗ non chỗ kém, cố mà kết thân Đó là chỉ chỗ vàng chôn Kết thân với họ, tốt hơn mười phần 77 Những người thường khéo khuyên răn Đừng làm điều ác, cản ngăn tội nhiều Được người Hiền kính bao nhiêu Thời người tâm ác ghét nhiều lắm thay 78 Chớ thân người ác, xa ngay Chớ nên kết bạn với bầy tiểu nhân Bạn lành, chọn bậc thượng tâm Chỉ lo tế độ, lành thân, ý, lời 79 Được nghe Chánh Pháp ai ơi Tâm tư thanh tịnh, thấm lời cao sâu Trí nhân hoan hỷ từng câu Thánh nhân thuyết giảng Pháp mầu ngát hương 80 Người lo trị thủy, đào mương Người nghề thợ mộc lo đường đo cây Thợ tên lo uốn tên ngay Trí Hiền, điều phục căn này phải lo 81 Vững vàng như tảng đá to Dông không lay chuyển, chẳng lo di dời Người Hiền Trí cũng vậy thôi Chẳng hề dao động khi người chê khen 82 Như hồ sâu thẳm, lặng yên Được nghe Chánh Pháp, tâm liền tịnh thanh Là người Hiền Trí đích danh Hưởng an tịnh lạc, tâm lành sạch trong 83 Người Hiền thường đã lìa xong Những điều tham dục trong lòng chẳng vương Trí nhân gặp khổ nhiễu nhương Tâm không lay động, vui buồn chẳng hay 84 Giữ gìn mình, ác chẳng gây Dù vì mình hoặc vì ai mặc lòng Chẳng vì cầu của, cầu con Chẳng vì thiên hạ, việc mong tựu thành Người này trí tuệ, hạnh thanh Giới trì Chánh Pháp, tâm lành thẳng ngay 85 Trong nhân quần ít người thay Được qua bờ giác đến nơi Niết Bàn Những người còn lại mê man Ngược xuôi chẳng khỏi tử sanh bờ này 86 Những ai thuyết Pháp ngày ngày Tu theo Chánh Pháp, Tâm này trụ an Qua bờ giác, đến Niết Bàn Lực Ma khó giữ, dễ dàng cứu thân 87 Trí nhân bỏ ác pháp đen Tu theo Pháp trắng, thiện duyên độ trì Xuất gia sống cảnh viễn ly Phép Sa Môn gắng tu trì siêng năng 88 Người Hiền Trí chẳng mắc vương Đã lià ngũ dục, vui nương Niết Bàn Không màng sở hữu, không tham Nội tâm cấu uế sạch tan còn gì 89 Tâm chánh trực, chí kiên trì Lo tu tập Pháp giác chi viên thành Lìa xa nhiễm ái, dục tham Không còn chấp thủ, não phiền diệt ngay Hiền nhân sáng suốt lắm thay Sống trong tịch tịnh, đời nay Niết Bàn |
Phẩm A La Hán (ARAHANTAVAGGO) #7
90
Những ai giải thoát hoàn toàn Dứt trừ hết mọi buộc ràng, trói dăng Đường đi đến đích đã xong Hết lo, hết sợ, chẳng còn khổ đau 91 Người tu Chánh Niệm vững sao Không còn luyến tiếc chốn nào an cư Ngỗng trời rời chốn ao tù Không còn luyến tiếc mồi từ ao xưa 92 Thánh nhân tài sản chẳng mơ Uống ăn điều độ, biết vừa đủ thôi Dục tham, sân, hận hết rồi Cảnh không, vô tướng, thảnh thơi Niết Bàn Như chim kia giữa mây ngàn Dấu bay lượn chốn không gian khó tìm 93 Thánh nhân dứt sạch não phiền Uống ăn chừng mực, chẳng thèm, chẳng ham Cảnh không, vô tướng, thênh thang Như chim cao lượn, ẩn tàng dấu chân 94 Thánh nhân nhiếp phục sáu căn Thuần như ngựa phục chủ nhân một niềm Chẳng còn ngã mạn, não phiền Là người tất được Chư Thiên kính vì 95 Thánh nhân không oán hiềm chi Tâm như đất phẳng, còn gì hận, sân Vững vàng như đá chấn môn Tâm như ao sạch, dứt luôn luân hồi 96 Thánh nhân ý nghiệp an rồi Giữ an ngữ nghiệp, an vui nghiệp hành Trí chân chánh, giải thoát mình Là A La Hán, an bình khôn nguôi 97 Thánh nhân chẳng phải nhờ người Chỉ đường giác ngộ, chỉ nơi Niết Bàn Dứt rời thiện, ác, dục tham Luân hồi cũng dứt, là hàng tối cao 98 Dù cho ở tận chỗ nào Làng quê, rừng thẳm, đồi cao, vũng lầy Có A La Hán tới đây Chỗ nào chỗ nấy, vui vầy bình yên 99 Núi rừng khả ái đẹp xinh Phàm nhân chẳng thiết, vui mình Thánh nhân Cũng do dục lạc xa gần Thánh nhân chẳng thiết, phàm nhân ưa vời |
Phẩm Ngàn (SAHASSAVAGGO) #8
100
Dẫu cho có nói ngàn lời Nếu vô nghĩa lý, cũng thời kể chi Một lời nghĩa lý dễ nghe Thân tâm tịch tịnh, dứt bề khổ đau 101 Dẫu cho tụng kệ ngàn câu Nếu không đượm nghĩa, đáng đâu, kể gì Không bằng tụng một kệ chi Nghe xong tịnh lạc, dứt bề khổ đau 102 Dẫu cho tụng kệ trăm câu Nếu lời vô nghĩa, ích đâu, chẳng bằng Tụng lên một kệ Pháp vàng Nghe xong, tịnh lạc, bình an cõi lòng 103 Dẫu cho thắng ở chiến trường Ngàn quân địch, cũng không mong sánh bằng Mình đà tự thắng được mình Đó là chiến thắng vô hình tối cao 104 Người kia tự thắng, tốt sao Hơn xa đã thắng ai nào, đáng chi Thắng mình, phải chế phục đi Tấm lòng tham dục, luôn thì nhiễu nhương 105 Dẫu là Càn Thát, Ma vương Hay Thiên thần, cũng khôn đường thắng ta Vì ta đã tự thắng ta Sống trong tự chế, thiết tha cúng dường 106 Dẫu rằng đã bỏ ngàn vàng Để lo tế tự quỷ thần trăm năm Chẳng bằng giây phút phát tâm Bậc chân tu đó, ta năng cúng dường Cúng dường như vậy tốt hơn Trăm năm tế tự quỷ thần sánh sao 107 Ai kia ở tại rừng sâu Trăm năm thờ lửa cũng đâu ích bằng Phút giây chợt ngộ ra rằng Bậc chân tu đó, ta năng cúng dưòng Cúng dường như vậy tốt hơn Trăm năm thờ lửa, thật khôn sánh bằng 108 Suốt năm cúng tế, lễ hằng Để cầu được phước, chẳng bằng phần tư Phước người kính lễ bậc tu Có tâm chánh trực, quả từ Thánh nhân 109 Nếu ta kính lễ, trọng tôn Những người trưởng thượng, đạo cao, đức dày Bốn điều sẽ được tăng hoài Đẹp, vui, sức khỏe, tuổi đời cũng tăng 110 Dẫu rằng sống cả trăm năm Một đời phá giới, tu thiền bỏ lơi Không bằng chỉ một ngày thôi Giới trì tinh tấn, không ngơi tu thiền 111 Trăm năm ai sống triền miên U mê ám tuệ, tu thiền bỏ lơi Không bằng chỉ một ngày thôi Mở mang trí tuệ, không ngơi tu thiền 112 Trăm năm ai sống biếng lười Không hề tinh tấn, một đời uổng thay Không bằng trong chỉ một ngày Hết lòng tinh tấn, hăng say tinh cần 113 Ai kia sống cả trăm năm Vẫn không thấy Pháp diệt sanh vô thường Không bằng chỉ một ngày đường Ngộ duyên ngũ uẩn vô thường diệt sanh 114 Ai kia sống cả trăm năm Vẫn mê uế trọc, Niết Bàn chẳng hay Sao bằng trong chỉ một ngày Niết Bàn tịch tịnh tỏ bày sáng tâm 115 Ai kia sống cả trăm năm Pháp cao chẳng thấy, lòng tràn u mê Sao bằng một buổi hướng về Pháp cao tối thượng, khai bề giác tri |
Phẩm Ác (PAPAVAGGO) #9
116
Hãy mau làm việc thiện đi Đừng cho điều ác chiếm vì cõi tâm Hễ làm việc thiện chậm lần Tâm ưa để Ác nhập xâm tức thì 117 Lỡ làm điều ác một khi Thời đừng tiếp tục làm gì ác thêm Chớ vui với Ác, đừng quên Tâm mà chứa Ác, chịu phiền khổ thôi 118 Đã làm điều thiện xong rồi Thời nên tiếp tục vun bồi làm thêm Hãy vui làm thiện triền miên Tâm tư tích thiện, một niềm an vui 119 Vì chưng quả ác chưa muồi Nên người làm ác vẫn vui, tưởng lành Đến khi nghiệp ác đã thành Ác liền gặp Ác, phải đành chịu thôi 120 Vì chưng quả thiện chưa muồi Làm lành mà vẫn thấy đời khổ thay Đến khi quả thiện chín cây Người hiền gặp phúc, vui vầy thiện duyên 121 Đừng vì ác nhỏ, coi khinh Nghĩ rằng quả chẳng tới mình, sợ chi Nước kia từng giọt li ti Cứ rò rỉ nhỏ đến khi bình trào Người ngu ác nghiệp lớn sao Do nhiều ác nhỏ dồn vào từ lâu 122 Việc lành chẳng thể nhỏ đâu Đừng cho rằng quả khó cầu, ích chi Nước kia từng giọt li ti Cứ rò rỉ nhỏ đến khi tràn bình Người hiền trí, thiện đầy mình Cũng do tích thiện, công trình mấy mươi 123 Đường buôn lắm của, ít người Tránh nơi trống vắng, xa nơi hiểm nghèo Sống lâu, độc dược tránh theo Nên xa tránh Ác là điều tất nhiên 124 Bàn tay chẳng có vết thương Có cầm thuốc độc, không thường bị lây Không thương tích, tránh độc hay Không làm điều ác, Ác hay tránh mình 125 Ác nhân muốn hại người hiền Hiền không bị hại, Ác tìm ác nhân Trong cơn cát bụi khó phân Ngược chiều đổi gió, ác nhân, Ác hành 126 Cũng cùng từ bụng mẹ sanh Nhưng người chính trực được lên cõi trời Ác thời đọa địa ngục rồi Ai rời sanh tử, chứng nơi Niết Bàn 127 Dù cho ẩn trốn trong hang Lặn sâu đáy biển, bắc thang lên trời Nào đâu có chỗ ở đời Đã gây ác nghiệp, để rồi trốn đâu 128 Dù cho ở dưới biển sâu Trên không cao vút, hang nao núi này Nơi nơi thần chết dang tay Chẳng nơi nào thoát lẽ này được đâu |
Phẩm Đao Trượng hay Phẩm Hình Phạt (DANDAVAGGO) #10
129
Ai mà chẳng sợ gậy đao Lòng người sợ chết, ai nào khác ta Lòng người, suy bụng ta ra Đừng sai bảo giết, chớ mà giết ai 130 Ai mà chẳng sợ gậy đao Ai không thích sống, ai nào khác ta Lòng người, suy bụng ta ra Đừng sai bảo giết, chớ mà giết ai 131 Chúng sanh cầu lạc ở đời Lại dùng đao gậy hại người, ác thay Hại người cầu lạc, ứng ngay Đời sau sẽ khổ, đời này chẳng vui 132 Chúng sanh cầu lạc ở đời Không dùng đao gậy hại người, tốt thay Một lòng cầu lạc đêm ngày Đời sau hưởng lạc, đời này an vui 133 Chớ buông lời ác với người Ta buông lời ác, người đời đáp ngay Ác qua, ác lại, khổ thay Như gươm, đao, trượng sẽ xoay hại mình 134 Nếu ta cứ tự nín thinh Trước người thô ác, không sinh cãi bàn Như chuông bể, chẳng tiếng vang Nội tâm thanh tịnh, Niết Bàn thong dong 135 Lùa bò ra bãi cỏ non Chăn bò chỉ một gậy con đủ dùng Cũng như già, chết vẫn từng Lùa sanh linh tới tử vong ngày ngày 136 Người ngu tạo ác chẳng hay Cũng không ý thức quả này nẩy sinh Đó là tự nghiệp do mình Tạo nên lửa đỏ, mặc tình nung thân 137 Dùng đao gậy đánh Thánh nhân Ác cùng người thiện, hại thân người hiền Tội hình chịu, lẽ tất nhiên Khổ đau mười loại, chịu liền chẳng sai 138 Một là mất hết tiền tài Hai là hại đến thân này thương vong Ba là trọng bệnh khó xong Bốn là tâm loạn, chẳng còn biết chi 139 Năm là bị bắt tội gì Sáu là trọng tội bất kỳ bị oan Bảy là ly tán họ hàng Tám là tài sản nát tan chẳng còn 140 Chín là nhà cửa, ốc phòng Hỏa tai thiêu rụi, chốc mòng ra tro Mười là khi chết phải lo Tuệ sanh địa ngục, mặc cho đọa đầy 141 Chân trần, sống tuyệt thực đây Đất lăn, tro trét, mình đầy nhớp nhơ Ngồi yên một thế cứng đơ Tóc đầu cứ để rối bừa tứ tung Khó làm thanh tịnh tâm tư Vì chưng nghi hoặc dứt trừ không xong 142 Ai kia tịch tịnh thân tâm Siêng năng nhiếp phục, tu hành dám lơi Sinh linh không hại mảy may Sa môn không phải, thời Bà-la-môn 143 Khó tìm thấy được người khôn Biết điều tự thẹn, biết luôn giữ mình Tránh xa chỉ trích, phê bình Như con ngựa quý biết tình tránh roi 144 Tựa như ngựa quý chạm roi Càng thêm tinh tấn, càng khơi nhiệt tình Giữ gìn Chánh Niệm, vững tin Chuyên cần giữ giới, định thiền, tịnh tâm Trí, hành đầy đủ, chánh chân Khổ đau vô lượng, mười phần sạch trơn 145 Người lo trị thủy, đào mương Người nghề thợ mộc, lo đường cưa cây Thợ tên lo uốn tên ngay Làm lành thời phải lo bài điều thân |
Phẩm Già (JARAVAGGO) #11
146
Cười chi, đâu có chi mừng Sân, tham, lửa dữ đốt nung đời mình Mịt mù trong cõi Vô Minh Không tìm đuốc tuệ cho mình sáng soi 147 Thân này cứ tưởng đẹp rồi Hay đâu bịnh tật trong người ẩn cư Gây toàn khổ não, suy tư Cái thân giả tạm, huyễn hư, chẳng bền 148 Mỗi ngày lại một già thêm Thành rừng bệnh tật, nỗi niềm mong manh Vô thường, tất phải mất nhanh Sự đời có tử, có sanh, lẽ thường 149 Trái bầu kia đẹp, dễ thương Sang thu bị héo, vẫn thường vứt đi Thân này cũng chẳng khác chi Chỉ còn xương trắng, có gì vui đâu 150 Thân này như thể thành hào Xây từ xương thịt, máu đào mà ra Nơi đây chỉ chứa chết, già Đúng là ngã mạn, đúng là dối gian 151 Xe vua dù đẹp cũng tàn Thân dầu trang điểm, cũng lần già thôi Pháp lành bậc Thánh trên đời Không suy tàn, được truyền nơi hiền tài 152 Ít nghe, kém học những ai Lớn, già chẳng khác những loài bò kia Thịt, gân tăng trưởng mọi bề Nhưng phần trí huệ chẳng hề tăng thêm 153 Qua bao kiếp sống triền miên Ta đều cố sức truy nguyên luân hồi Thân này phải tạo lại thôi Khổ thay, phải chịu luân hồi tái sanh 154 Bây giờ lẽ rõ rành rành Thoát vòng sanh tử, tử sanh luân hồi Thân này thân chót đấy thôi Ta đà chứng đắc, an nơi Niết Bàn Vô minh, chấp thủ, dục tham Cũng đà dứt hết, chẳng còn bận tâm 155 Trẻ người không cố lập thân Không lo tu đạo, tích nhân dồi dào Khi già ủ rũ làm sao Như con cò yếu bên ao không mồi 156 Trẻ người chẳng cố xây đời Không lo tu đạo, chẳng vời tích nhân Khi già, dáng tựa cung cong Xót về dĩ vãng, thở than buồn tình |
Phẩm Tự Ngã (ATTAVAGGO) #12
157
Ai kia nếu biết thương mình Phải lo tự bảo hộ mình, chớ quên Trong ba canh , cũng một phen Tỉnh ra, học tập, tu tâm chớ hoài 158 Đặt mình trong Chánh Đạo rồi Mới lo giáo hóa người đời, tha nhân Không e ô nhiễm, lỗi lầm Mới là hiền giả , thập phần xứng danh 159 Dạy khuyên người khác thiện hành Hãy lo làm trước, cho mình thích nghi Hãy lo điều phục mình đi Phục điều mình khó, dễ gì thành công 160 Chính mình là chỗ tựa nương Đừng mong nương tựa, tựa nương vào người Khéo tu, khéo tập ở đời Mới mong đạt đến chốn nơi nhiệm mầu (*) 161 Chính mình tạo ác chứ đâu Mình làm mình chịu, ai nào khác ta Ác kia nghiền nát kẻ tà Như kim cương nghiến nát tan đá này 162 Kẻ kia phá giới, hại thay Như cây leo bám giết cây đỡ mình Chính mình lại hại thân mình Kẻ thù cũng chỉ muốn mình thế thôi 163 Dễ làm điều ác, người ơi Cũng như dễ tự hại đời mình đây Làm lành được lợi, tốt thay Nhưng vô vàn khó, ráng tay mà làm 164 Người ngu phỉ báng bất phân Pháp, A La Hán, Thánh nhân đạo hành Nào hay tà kiến chẳng lành Là mầm tự hoại đã sanh quả rồi Cách tha cỏ cũng vậy thôi (*) Hễ sinh ra quả, tàn đời cỏ lau 165 Mình làm ác chứ ai đâu Chính mình ô nhiễm, vương sầu chứ ai Làm lành chẳng kể một hai Tự mình thanh tịnh, chẳng ai giúp mình Tịnh hay không tịnh, do mình Chẳng ai có thể giúp mình tịnh thanh 166 Giúp người giải thoát tử sanh Phải lo chuyện đó cho mình trước tiên Biết đâu là lợi ích riêng Mới chuyên tâm, mới gắng siêng chu toàn |
Phẩm Thế Gian (LOKAVAGGO)#ID
167 Chớ theo những pháp thấp hèn Chớ buông lung, sống mặc nhiên qua ngày Chớ theo tà kiến, mê say Tục trần tăng trưởng, quắt quay luân hồi 168 Phải luôn nỗ lực ở đời Sống theo Chánh Pháp, xa rời buông lung Sống đời trì giới, tu tâm Đời nay hưởng lạc, đời sau hưởng lành 169 Chớ theo tà hạnh, ác hành Sống theo Chánh Pháp, tốt lành, thiện chân Sống đời trì giới, tu tâm Đời nay hưởng lạc, đời sau cũng vầy 170 Hãy nhìn bọt nước tung bay Cũng là huyễn ảo, cũng tày tang thương Hiểu ra cái lẽ vô thường Tử thần chẳng gặp trên đường chánh tu 171 Ngắm nhìn lộng lẫy xe vua Tưởng đời cũng đẹp, nào thua kém gì Người ngu tham đắm, si mê Chỉ duy người trí chẳng hề bận tâm 172 Những ai đã sống buông lung Biết rời phóng dật, gắng tâm thiện hành Thật là ánh sáng trong lành Như vầng trăng sáng thoát vành mây che 173 Những người chịu nghiệp khắt khe Nay đà sám hối, chỉ mê thiện hành Đó là ánh sáng trong lành Như vầng trăng sáng thoát vành mây che 174 Đời này thật quá u mê Ít người sáng suốt hướng về cõi Thiên Như chim thoát khỏi lưới giềng Chỉ bay quanh quẩn, cao thiên chẳng màng 175 Thiên nga bay, chỉ nhỡ nhàng Có thần thông, chỉ lưng chừng trên không Duy người đại trí tinh thông Dẹp yên Ma lực, mới mong thoát đời 176 Những ai vọng ngữ, lắm lời Đế chân nhất Pháp cũng thời phạm ngay Đời sau chẳng biết, chẳng hay Ác nào là chẳng ra tay dám làm 177 Kiệt keo, sao đạt cõi Thiên Người ngu, bố thí ghét phiền chẳng cho Trí nhân, bố thí chăm lo Tương lai an lạc, tâm tư vui vầy 178 Dự lưu, nếu đạt quả này Chủ nhân cõi đất nào tày, sánh sao Cõi Thiên cũng khó so nào Chủ trì Thiên Giới làm sao sánh bằng |
Phẩm Phật Đà (BUDDHAVAGGO) #14
179 Phật Đà đã thắng hoàn toàn Dục tham đã diệt, chẳng còn chút chi Mênh mông Phật trí từ bi Chẳng còn dấu tích, còn gì dục tham Khó tìm theo dấu dục tham Làm sao cám dỗ bậc cao vẹn toàn 180 Phật Đà ái dục dẹp tan Dục tham vô hiệu, ai làm được chi Mênh mông Phật trí từ bi Chẳng còn dấu tích, còn chi buộc ràng Khó tìm theo dấu dục tham Làm sao cám dỗ bậc cao vẹn toàn (*) 181 Trí nhân thiền định chuyên cần Thích nơi thanh vắng một lần viễn ly Là người chánh giác, khó bì Khiến trời, người cũng mến vì, kính yêu 182 Được làm người, thật khó thay Khó thay được sống trọn nơi cõi trần Được nghe Chánh Pháp, khó hơn Khó sao gặp Phật ở trên đời này 183 Không làm điều ác, vui thay Gắng công hành thiện, gắng xây hạnh lành Giữ gìn tâm, ý sạch trong Lời chư Phật dạy, để mình tu thân 184 Phật thường giảng dạy chúng dân Quả cao tối thượng, Niết Bàn là đây Nhẫn là khổ hạnh cao dày Xuất gia thời chẳng hại người, lành sao Sa môn chẳng hại ai nào Xứng danh tên gọi, có đâu sai lầm 185 Phật thường giảng dạy chúng dân Chớ nên phỉ báng, tổn thương mọi người Uống, ăn nên tiết độ thôi Giữ gìn trì giới, sống nơi tịnh nhàn Siêng năng bát định, thiền, không Lời chư Phật dạy, chuyên cần dám sai 186 Dù mưa vàng bạc rải đầy Dục tham khó thỏa ngay nơi lòng mình Trí nhân biết rõ sự tình Dục nhiều quả đắng, thời mình ham chi 187 Lẽ này đã ngộ, đã tri Người tu học Phật chẳng mê dục rồi Dù là dục lạc cõi trời Chỉ cầu diệt ái dục thôi, viên thành 188 Trong cơn lo sợ, hoảng kinh Tìm nơi nương tựa để mình quy y Này rừng nọ, nọ núi kia Này thần, này miếu, thiếu gì chốn nơi 189 Nếu không lựa chọn đúng nơi Quy y đúng chỗ, sao vơi khổ này Quy y tối thượng tốt thay Khổ đau mới thoát, mới hay Pháp mầu 190 Ai kia muốn hết khổ đau Tìm về Phật, Pháp, Tăng hầu quy y Trí chân, Chánh Tuệ phát huy Thấy ra Tứ Đế , thoát ly khổ nàn 191 Đời là đau khổ vô vàn Nguyên nhân đau khổ, dục tham lẽ này Muốn hết khổ, diệt dục ngay Hướng tâm Chánh Đạo , tức thời khổ tan 192 Quy y Tam Bảo, tâm an Là nơi tối thượng, thoát nàn khổ đau 193 Thánh nhân khó gặp làm sao Phải đâu cũng có, chỗ nào cũng sanh Chỗ nào có bậc trí sanh Gia đình thân tộc an lành vui tươi 194 Vui thay Phật đã ra đời Vui thay Pháp giảng khắp nơi xóm làng Vui thay hoà hợp Tăng đoàn Vui thay đệ tử mấy hàng đồng tu 195 Cúng dường các bậc chân tu Học trò chư Phật đã trừ khổ đau Chân tu là bậc thanh cao Thoát ly hư vọng, sạch lầu não tâm 196 Cúng dường các bậc Thánh nhân Có tâm tịch tịnh, lại không sợ gì Các công đức ấy ai bì Không ai ước lượng đếm ghi cho vời |
Phẩm An Lạc (SUKHAVAGGO) #15
197 Vui thay ta sống ở đời Lòng không thù hận, giữa nơi hận thù Mặc người thù hận ám bu Lòng ta vẫn lắng, chẳng thù hận ai 198 Vui thay ta sống hòa hài Lòng không phiền não, giữa nơi não phiền Mặc người phiền não triền miên Lòng ta vẫn tịnh, không phiền, không nao 199 Vui thay ta sống thanh tao Giữa nơi tham dục, lòng bao trong lành Mặc người tham dục vây quanh An nhiên ta sống, tịnh thanh một lòng 200 Vui thay ta sống tâm không Tham, sân, si dứt, lòng không ngại gì Hưởng an, hỷ, lạc, một bề Như nơi Thiên Giới, xứng tề Quang Âm 201 Thắng thời gây oán hận thâm Thua thời uất ức, cam phần khổ đau Sống đời hòa hiếu, thanh cao Bỏ sau thắng, bại, dâng trào niềm an 202 Lửa nào sánh được lửa tham Ác nào hơn được ác sân, hận này Khổ nào sánh khổ uẩn thay Vui nào bằng được vui nơi Niết Bàn 203 Đói ăn, khát uống, bệnh trầm Các hành, các uẩn là tầng khổ cao Hiểu ra sự thực thể nào Hưởng vui tối thượng, thanh cao Niết Bàn 204 Người không bệnh, lợi ngút ngàn Nếu lòng biết đủ, giầu sang khó vời Bạn cùng thành tín, nhất rồi Niết Bàn là cõi tuyệt vời lạc an 205 Niềm vui sống ẩn vô vàn Tỏ tường cuộc sống, tịnh nhàn tâm tư Niềm vui Pháp hỷ sẽ ưa Không còn sợ hãi, nhiễm ô chẳng còn 206 Lành thay gặp được Thánh nhân Sống gần cũng được hưởng phần lạc an Mừng không gặp những ngu nhân Sống càng xa họ, thường càng an vui 207 Sống chung với những người ngu Buồn lo tựa sống với thù, khổ thay Sống cùng người trí, nào tày Như cùng thân thuộc vui vầy gặp nhau 208 Đúng là gần được Thánh nhân Những người hiền trí, giữ thân, giới trì Thiện nhân, hiền tuệ cận kề Con đường sáng tỏ, khác gì trăng lên |
Phẩm Hỷ Ái (PIYAVAGGO)#16
209 Lo làm những việc không nên Tu hành thời lại chẳng chuyên, không làm Đành lòng theo hướng dục tham Thời đừng so kể người ham giới trì 210 Đừng thân kẻ đáng yêu vì Chớ thân kẻ chẳng hợp chi với mình Yêu, không được gặp, khổ hình Ghét nhau, phải gặp, trăm nghìn khổ đau 211 Hiểu ra, sẽ chẳng nên yêu Xa nhau, ly biệt, trăm điều sầu thương Dứt trừ yêu, ghét tình thường Chẳng còn ràng buộc, lòng luôn nhẹ nhàng 212 Lòng còn hỷ ái đa mang Sinh ra lo sợ, tâm càng khổ thêm Xa lìa hỷ ái một niềm Sầu thời tan biến, còn phiền sợ chi 213 Mang lòng tham ái, sầu bi Sinh ra lo sợ, tâm thì khổ đau Ai kia tham ái thoát mau Sợ thời tan biến, hết sầu, hết lo 214 Lòng còn tham dục dày vò Sinh ra sợ hãi, sinh lo, sinh buồn Xa lià tham dục, nhẹ lòng Sầu thời tan biến, đâu còn sợ chi 215 Lòng còn lạc dục, đam mê Sinh ra lo sợ, trăm bề khổ đau Ai kia lạc dục thoát mau Sầu thời tan biến, tâm đâu sợ gì 216 Trong lòng ái dục, sầu bi Sinh ra sợ hãi, tâm thì khổ thêm Xa lià ái dục, tâm êm Sầu thời tan biến, đâu phiền sợ chi 217 Vẹn toàn giới đức, tuệ tri Pháp lành nương trú, Đế chân chứng rồi Viên thành công hạnh vun bồi Được lòng ái kính mọi người, chẳng sai 218 Ly ngôn pháp muốn chứng rồi Quả Tăng Thượng cũng chẳng rời ý cao Đắm mê dục lạc, dám đâu Thượng Lưu bậc ấy, danh nào xứng hơn 219 Cũng như người khách ly hương Xa nhà lâu lắc, trên đường về quê Bà con thân thuộc, bạn bè Hân hoan chào đón, trăm bề mừng vui 220 Người làm phước cũng vậy thôi Tích lành tích thiện đời đời tới nay Nghiệp lành mở rộng đôi tay Đón chào người thiện cũng tày thân nhân |
Phẩm Phẫn Nộ (KODHAVAGGO) #17
221 Giã từ phẫn nộ, kiêu căng Giã từ phiền não buộc ràng nội tâm Lià xa chấp trước, tâm, thân Khỗ đau sẽ hết, chẳng còn chỗ nương 222 Chận cơn phẫn nộ đang tăng Như xe đang chạy, dừng lăn kịp thời Đó là người đánh xe tài Nếu không, thời chỉ là nài buông cương 223 Lấy không giận thắng giận hờn Lấy lành thắng cái chẳng lành mới cam Cúng dường tâm thắng xan tham Lấy chơn thật thắng dễ dàng ngụy hư 224 Ít tiền, ít của, vẫn cho Chẳng hề phẫn nộ, chẳng lo giận hờn Nói năng lời lẽ thật chơn Là ba việc thiện giúp gần giới Thiên 225 Chẳng hề làm hại người hiền Thân, tâm chế phục triền miên chẳng rời Niết Bàn sẽ chứng được thôi Khổ đau sẽ hết, phiền thời cũng tan 226 Những người thức tỉnh, siêng năng Cố công tu học thường hằng ngày đêm Niết Bàn là hướng tiến lên Bao nhiêu phiền não dứt liền đó thôi 227 Ngồi im cũng bị chê rồi Nói nhiều cũng bị chê cười, khác chi Nói vừa phải cũng bị chê Làm sao tránh được lời chê của người 228 Xem ra sống ở trên đời Từ xưa cổ tới hiện thời, tương lai Chẳng ai cứ bị chê hoài Cũng không ai suốt trọn đời được khen 229 Ngày ngày xét kỹ mình xem Có vương tỳ vết, tịnh thanh giới trì Hiền minh, trí tuệ đôi bề Khiến cho người trí tiếc gì tán dương 230 Chánh nhân hạnh tỏa sáng trưng Như vàng ròng nọ, ai còn dám chê Chư Thiên tán thưởng nhứt tề Bà-la-môn đó, xứng bề danh xưng 231 Giữ thân đừng nóng giận hờn Giữ gìn thân, phải phục thuần lấy thân Tránh xa thân ác vi hành Dùng thân tu tập hạnh lành chánh chơn 232 Giữ lời đừng nóng giận hờn Giữ lời, phải biết phục thuần nói năng Tránh lời nói ác, thô càn Dùng lời tu tập hạnh lành chánh chơn 233 Ý đừng nóng giận đòi cơn Giữ phòng ý, phải phục thuần ý, tâm Lià xa ý ác, ý hung Ý lành tu tập hạnh lành chánh chơn 234 Người hiền điều phục lấy thân Giữ gìn miệng, lưỡi, mỗi lần nói ra Giữ gìn ý tứ chẳng tà Điều xong ba nghiệp, đúng là khéo tu |
Phẩm Cấu Uế (MALAVAGGO)#18
235 Đời ngươi giống tựa lá khô Tử thần đang đứng đợi chờ một bên Trước thần chết, tự hỏi xem Đường dài, lương thực mình đem những gì 236 Đảo riêng hãy tự tạo đi Tinh cần gấp rút, hành trì khôn ngoan Dứt trừ phiền não, cấu trần Bước lên thánh cảnh, Chư Thiên đón mời 237 Đời ngươi sắp lụn tàn rồi Diêm vương đang đợi chờ ngươi lại gần Giữa đường chẳng chỗ nghỉ chân Đường dài, lương thực độ thân có gì 238 Đảo riêng hãy tự tạo đi Tinh cần gấp rút, hành trì khôn ngoan Dứt trừ phiền não, cấu trần Không còn già, bệnh, tử, sanh, thoát nàn 239 Trí hiền sánh tựa thợ vàng Lọc từng tạp chất cho vàng sạch ra Sát na tiếp nối sát na Trí hiền lọc cấu uế ra khỏi mình 240 Sét kia từ sắt mà sinh Lại ăn mòn sắt, thường tình đó thôi Ác nhân gieo nghiệp ác rồi Nghiệp kia lại dắt vào nơi ác bờ 241 Kinh không tụng, học kinh nhơ Không siêng năng, ấy vết nhơ cửa nhà Biếng lười, nhơ nhớp thân ta Buông lung là vết nhơ người giữ thân 242 Hạnh tà, nhơ nhớp nữ nhân Kiệt keo, nhơ nhớp kẻ ban chút quà Vết nhơ là nghiệp ác tà Đời này, đời khác, vẫn là ác thôi 243 Bao điều nhơ nhớp kể rồi Vô minh, nhơ nhớp phải coi đứng đầu Tỷ Kheo tu tập Pháp mầu Trừ Vô minh ấy, làm sao nhơ người 244 Dễ thay sống chẳng hổ ngươi Sống đời lỗ mãng, quạ, dơi bay quàng Sống liều, công kích, huênh hoang Sống tà, ngạo mạn, trăm đường uế thôi 245 Khó thay sống biết hổ ngươi Luôn cầu thanh tịnh, sống đời vô tư Sống trong sạch, sống khiêm từ Dồi dào kiến thức, ơ hờ dục tham 246 Những ai ở cõi thế gian Nói lời giả dối, chẳng màng thật chân Sát sinh, trộm cắp, phạm dâm Rượu men, rượu nấu, hương nồng đắm say 247 Sống đam mê, thật uổng thay Là đời này đã tự tay bới đào Thiện căn mình có thuở nào Bới đào vứt bỏ, làm sao an lành 248 Các người phải biết tạo lành Không lo chế ngự, ác sanh tức thì Tham lam, phạm Pháp làm chi Để mua thống khổ, sầu bi đời đời 249 Tâm tin đạo với lòng vui Ta chăm bố thí, chẳng lơi cúng dường Nếu như vẫn cứ ganh hờn Người ăn kẻ uống, khó đường định tâm 250 Nếu ai dẹp được hờn ganh Nhổ sâu tận gốc cái tâm ác này Sẽ gìn giữ được đêm ngày Cái tâm đã định cho đời lạc an 251 Lửa nào dữ sánh dục tham Chấp nào bền chắc bằng sân hận này Lưới nào chặt tựa si ngây Sông nào dễ đắm cho tày ái giang 252 Lỗi người tìm thấy dễ dàng Cố tìm, như trấu trên sàng gạo tươi Lỗi mình sao khó phanh phui Như gian bài bạc, giấu rồi lại che 253 Lỗi người mắt thấy tai nghe Sanh lòng chỉ trích, thường chê bai người Não phiền cứ vậy tăng hoài Làm sao diệt được cho đời tịnh an 254 Chốn hư không, chẳng dấu chân Ngoài vòng Phật đạo, khó tầm Sa môn Chúng sanh hư vọng vui buồn Như Lai an tịnh, không còn vọng hư 255 Dấu chân nào chốn không hư Ngoài vòng Phật đạo, khó là Sa môn Kìa năm uẩn cũng vô thường Như Lai, chư Phật tịnh tâm vẹn toàn |
Phẩm Pháp Trụ (DHAMMATTHAVAGGO)#19
256 Kẻ kia lỗ mãng, cực đoan Phụng thờ Chánh Pháp đừng toan tính gì Trí nhân phải biết xét suy Chánh tà, đen trắng, đôi bề phân minh 257 Ai người trí giác, công bình Không hề chuyên chế, phân minh dẫn đường Sống theo đúng Pháp luôn luôn Xứng danh Pháp trụ, đó nguồn an nhiên 258 Không cần phải nói năng nhiều Mới là Hiền trí, trăm điều tốt tươi Tịnh an, không oán cừu ai Không hề sợ hãi, xứng vời trí nhân 259 Nói năng nhiều cũng chẳng cần Để cho xứng được cái danh Pháp trì Học tuy ít, Chánh Pháp ghi Trì hành Chánh Pháp, chẳng hề buông lung Thấy ra Chánh Pháp tự tâm Xứng danh trì Pháp, chẳng lầm, chẳng sai 260 Dầu cho đầu bạc trắng rồi Danh xưng Trưởng Lão chưa vời được đâu Nếu người chỉ tuổi tác cao Chẳng lo tu tập, khác nào danh suông 261 Ai kia Tứ Đế tinh thông Năm căn điều phục, quyết không hại người Giới trì, cấu uế hết rồi Xứng danh Trưởng Lão người đời tụng xưng 262 Ai kia lưu loát nói năng Mặt mày đẹp đẽ, phải chăng người hiền Nếu còn dối trá, ganh hiềm Tham lam, ích kỷ, là Hiền khó thay 263 Nếu như diệt được gốc này Tận trong lòng, để từ rày sạch trơn Không còn si hận, tham, sân Mới là Hiền trí, Thiện nhân xứng tầm 264 Ai kia cạo sạch tóc trần Giới buông, vọng ngữ, khó lầm Sa môn Lòng chưa dứt sạch dục tham Làm sao thành được Sa môn ở đời 265 Ai mà dứt ác điều rồi Ác nhân lớn, nhỏ đồng thời biến tan Không còn ác pháp, tịnh thanh Sa môn người ấy xứng danh ở đời 266 Chỉ đi khất thực nơi nơi Thời là khất sĩ, sao vời Tỷ Kheo Tu hành Chánh Pháp chẳng theo Chỉ lo hình thức, Tỷ Kheo đâu mà 267 Chân tu, thiện, ác, vượt qua Sống đời tịnh hạnh, xuất gia, giới trì Rõ ràng giới, định, tuệ tri Tỷ Kheo bậc ấy xứng vì làm sao 268 Người ngu si thiếu trí cao Dẫu cho im lặng, phải nào tịnh thanh Trí nhân suy xét rõ rành Nẩy cân thiện ác, điều lành chọn ngay 269 Dứt từ ác pháp đêm ngày Trí cao thấu hiểu đời này, đời sau Thật là ẩn sĩ, báu châu Xứng câu tịch tịnh, thoát cầu vô minh 270 Nếu còn sát hại chúng sanh (*) Đâu là Hiền Thánh giữ mình thanh cao Hữu tình chẳng hại loài nào Mang danh Hiền Thánh, xứng sao mọi chiều 271 Chẳng vì gìn giữ giới điều Hiểu rành ba tạng, học nhiều, lầu thông Chẳng vì khổ hạnh, tu tâm Chẳng vì đang sống lẻ đơn, vắng người 272 Mà cho rằng đã đắc rồi Xuất gia đã chứng, khác đời phàm phu Tỷ Kheo chớ vội lầm mơ Mê phiền chưa diệt, khó mà đắc thay |
Phẩm Đạo (MAGGAVAGGO) #20
273 Đạo nào hơn Bát Chánh đây Lý nào bằng Tứ Đế tày lý chân Dục ly, không pháp nào hơn Phật Đà năm mắt, bậc trên Thánh Hiền 274 Duy đường Chánh Đạo đương nhiên Làm cho tri kiến một niềm tịnh thanh Nếu theo đường ấy trì hành Ma quân mê loạn, đoạn nhanh não phiền 275 Tu theo Chánh Đạo tự nhiên Khổ đau đoạn tận, chướng duyên còn gì Con đường Ta chỉ, gắng đi Trí tâm rộng mở, sân, si diệt tàn 276 Hãy mau giác ngộ mọi đàng Như Lai đã chỉ rõ ràng đường đi Siêng năng thiền định, hành trì Ác Ma sẽ chẳng trói ghì được đâu 277 Tuệ kia soi sáng thâm sâu Lẽ vô thường thấy đâu đâu cũng là Khổ đau do đó lià xa Con đường thanh tịnh cứu ta thoát nàn 278 Tuệ kia soi sáng ngút ngàn Thấy đau khổ đã lan tràn khắp nơi Khổ đau nhàm chán quá rồi Con đường thanh tịnh đón mời người tu 279 Tuệ kia soi sáng thâm u Thấy rằng các pháp đều vô ngã rồi Khổ đau cũng phải lìa thôi Con đường thanh tịnh đón mời người tu 280 Khi cần chẳng nỗ lực ư Lúc còn cường tráng lại nhu nhược, lười Để cho ý chí ngủ vùi Làm sao ngộ đạo cho đời tiến thăng 281 Giữ gìn khẩu nghiệp, nói năng Giữ thân, chớ để ác tâm xúi làm Giữ tâm tư, khéo hộ phòng Giữ ba nghiệp tịnh, đạo dòng Thánh nhân 282 Tu thiền thời trí tuệ tăng Bỏ thiền, trí tuệ cầm bằng tiêu tan Hiểu tường hai lẽ mất, còn Dốc lòng tu tập, viên tròn huệ năng 283 Đốn rừng dục, giữ cây ngay Dục kia sinh sợ hãi này chứ đâu Đốn rừng ái dục sạch lầu Tỷ Kheo tịch tịnh, dứt sầu, sạch tâm 284 Dây tình trai gái còn vương Vẫn chưa dứt được ý, tâm buộc ràng Dây tình tâm, ý buộc ràng Bò con, vú mẹ, khôn đàng cách ly 285 Tự mình dứt ái dục đi Như tay bẻ nhánh sen thì vào thu Đạo mầu tịch tịnh gắng tu Niết Bàn ngay đó, đúng như Phật truyền 286 Mùa mưa đã sống bình yên Qua thời đông hạ vẫn nguyên chỗ này Người ngu cứ nghĩ như vầy Mà quên tự giác, chết nay rất gần 287 Ai còn mê đắm tâm thần Cháu con, gia súc, là phần của ta Tử thần lôi bắt chẳng tha Như mưa lũ cuốn làng kia ngủ vùi 288 Đến khi thần chết đến rồi Có ai che chở, có ai đỡ đần Cháu con, cha mẹ, họ hàng Làm sao cứu hộ, cứu nàn được đây 289 Trí nhân biết rõ lý này Lo toan trì giới, siêng năng chuyên cần Mau làm thanh tịnh thân tâm Thênh thang hạnh lộ, quang lâm Niết Bàn |
Phẩm Tạp Lục (PAKINNAKAVAGGO) #21
290 Bỏ niềm vui nhỏ đi rồi Tự nhiên thấy được niềm vui lớn này Trí nhân đã hiểu ra ngay Giã từ lạc dục, rõ đây Niết Bàn 291 Đã làm đau khổ tha nhân Lại mong có được tâm thần an vui Bị thù hận trói buộc rồi Làm sao thoát được thù bồi, oán tăng 292 Việc làm đáng, lại không làm Việc nào không đáng, lại làm chẳng ngưng Những người ngạo mạn, buông lung Trong lòng phiền não mấy từng chất lên 293 Siêng năng quan sát tự thân Sẽ không làm việc nào không đáng làm Việc nào đáng, sẽ gắng làm Trong lòng phiền não sẽ tàn dứt ngay 294 Diệt xong mẹ ái dục này Diệt cha kiêu mạn, diệt hai vua tà Diệt mười hai xứ, quần ma Sống đời Thánh hạnh, cùng là vô ưu 295 Diệt xong mẹ ái dục này Diệt cha kiêu mạn, diệt hai vua tà Diệt luôn hổ tướng nghi ngờ Một đời Thánh hạnh, vô ưu mới là 296 Đã là đệ tử Phật Đà Phải luôn tỉnh giác, phải mà cần chuyên Bất kỳ, chẳng kể ngày đêm Dốc lòng thường niệm Phật danh mới là 297 Đã là đệ tử Phật Đà Phải luôn tỉnh giác, phải mà cần chuyên Bất kỳ, chẳng kể ngày đêm Dốc lòng Chánh Pháp niệm luôn mới là 298 Đã là đệ tử Phật Đà Phải luôn tỉnh giác, phải mà cần chuyên Bất kỳ, chẳng kể ngày đêm Dốc lòng thường niệm vinh danh Tăng già 299 Đã là đệ tử Phật Đà Phải luôn tỉnh giác, phải mà cần chuyên Bất kỳ chẳng kể ngày đêm Dốc lòng niệm tưởng sắc, thân mới là 300 Đã là đệ tử Phật Đà Phải luôn tỉnh giác, phải mà cần chuyên Bất kỳ chẳng kể ngày đêm Vui niềm bất sát chúng sanh mới là 301 Đã là đệ tử Phật Đà Phải luôn tỉnh giác, phải mà cần chuyên Bất kỳ chẳng kể ngày đêm Vui tu thiền quán, hết liền sân, tham 302 Xuất gia tu hạnh khó kham Tại gia sinh hoạt muốn làm, khó ghê Khổ thay sống với ai kia Không là bằng hữu, chẳng hề đồng tâm Luân hồi mài miệt trôi lăn Cũng là khổ vậy, phải chăm thoát nàn 303 Tín tâm có, giới hạnh toàn Thời danh dự với Thánh tài đều tăng Chỗ nào người ấy đặt chân Người người vị nể, xa gần tôn vinh 304 Người hiền thiện, dẫu xa mình Danh như núi tuyết, sáng lành tỏa quang Ác nhân dầu ở rất gần Bắn cung trong tối, chẳng cần đoái trông 305 Ngồi, nằm một bóng chẳng buồn Độc hành đường lớn, cô đơn chẳng hề Tự mình điều phục chỉnh ghê Rừng sâu thanh vắng, một bề lạc an |
Phẩm Địa Ngục (NIRAYAVAGGO) #22
306 Nói sai, nói láo, nói càn Có làm mà nói không làm, điêu ngoa Tạo ra nghiệp ấy, ắt là Chết sa địa ngục, khó mà thoát đâu 307 Cà sa khoác mượn lấy mầu Không ngăn ác hạnh, dãi dầu buông lung Ác nhân tại nghiệp ác sinh Chết sa địa ngục, thọ hình chẳng sai 308 Ai kia phá giới, tu lơi Gây ra nghiệp ác, sống đời buông lung Thà rằng nuốt sắt đỏ nung Còn hơn ăn của cúng dường thập phương 309 Bốn tai ách sẽ đón đường Những người phóng dật muốn thương vợ người Ngủ không yên, họa chẳng rời Bị chê bai, địa ngục thời đọa sa 310 Chớ mà theo vợ người ta Ít vui, hoảng sợ hoặc là mắc tai Vương vòng pháp luật, tàn đời Đọa đầy ác thú là nơi đón chờ 311 Cỏ kia sắc, nắm vụng về Thế nào cũng phải một bề đứt tay Sa môn giới hạnh chẳng ngay Đọa sa địa ngục, lẽ này tất nhiên 312 Sống buông lung, chẳng giữ gìn Nhiễm ô giới hạnh, chẳng tin tu hành Đó là lối sống chẳng thanh Làm sao chứng được quả lành, quả cao 313 Việc cần làm, gắng sức vào Làm say mê, chẳng lúc nào nghỉ ngưng Xuất gia mà vẫn buông lung Sống đời phóng dật, chỉ tăng dục trần 314 Không làm điều ác là hơn Làm rồi thọ khổ, biết đường tránh đâu Hãy làm điều thiện cho mau Làm xong chẳng tiếc, vui sao một niềm 315 Như thành kia ở ngoại biên Trong ngoài canh giữ trang nghiêm, ngặt nghèo Giữ mình, cũng phải y theo Chớ buông lung, chỉ thoáng vèo sát na Buông lung một phút giây qua Chính là lúc địa ngục sa mấy từng 316 Không đáng hổ, lại thẹn thùng Việc nên hổ thẹn, lại không hổ gì Là do tà kiến chấp nê Đọa sa địa ngục, khó bề thoát thay 317 Không đáng sợ, lại sợ ngay Việc nào đáng sợ, mảy may không hề Là do tà kiến chấp nê Đọa sa địa ngục, khó bề thoát thay 318 Không gây lỗi, lại nhận ngay Đến khi có lỗi, mảy may không hề Là do tà kiến chấp nê Đọa sa địa ngục, khó bề thoát thay 319 Có gây lỗi, biết nhận ngay Không gây ra lỗi, cũng hay biết rành Là nhờ Chánh Kiến giúp mình Giữ tâm Chánh Kiến, đường lành cận bên |
Phẩm Voi (NAGAVAGGO)#23
320 Ta như voi giữa trận tiền Tên rơi, cung bắn, liên miên không ngừng Chịu lời phỉ báng chẳng buồn Lắm người phá giới vẫn thường ghét tu 321 Voi kia luyện phục, được đua Voi này luyện phục, được vua cưỡi rồi Nghe lời chê vẫn mặc thôi Luyện lòng ẩn nhẫn, hơn tài thế nhân 322 Con la giống tốt, tánh thuần Voi to, ngựa giống, quý trân đã đành Chẳng bằng người tự điều mình Điều mình tối thượng, tốt lành,quý thay 323 Chẳng nhờ ngựa nọ, voi này Mà mong thụ đắc, chứng nơi Niết Bàn Chỉ nhờ điều phục tâm, thân Mới mong đạt đích, đắc thành quả cao 324 Voi Tài Hộ cũng hung nào Đến kỳ phát dục, không sao phục thuần Bị giam, bỏ uống, bỏ ăn Ngày đêm chỉ nhớ, chỉ mong về rừng 325 Heo tham ăn uống quá chừng Lại ưa ngủ kĩ, nằm lăn lóc hoài Phàm phu ham hưởng cũng vầy Đam mê ăn ngủ, vần xoay luân hồi 326 Buông lung cũng có lúc rồi Chạy theo dục lạc, thú vui quay cuồng Nay Ta đã chế ngự tâm Như người quản tượng móc cầm điều voi 327 Sống không phóng dật, hãy vui Siêng năng, tỉnh thức, chẳng lơi hộ phòng Kéo mình ra khỏi ác tròng Như voi cố gắng thoát không sa lầy 328 Gặp người Hiền trí đồng hành Gian nguy hàng phục, hạnh lành phát huy Nên cùng chung sống, cùng đi Con đường Chánh Niệm thiếu gì an vui 329 Nếu không gặp được thì thôi Không người chung sống, ta thời sống riêng Như vua bỏ nước chẳng yên Như voi sống ở rừng thiêng của mình 330 Tốt hơn là sống một mình Chứ không kết bạn thân tình người ngu Xa lià ác dục, vô tư Như voi thoải mái ở khu rừng già 331 Vui thay gặp bạn đã xa Sống mà biết đủ, thật là đáng vui Chết mà thiện nghiệp tích rồi Cũng vui như thể đoạn rời khổ đau 332 Nhớ ơn cha mẹ cao sâu Một lòng hiếu kính, siết bao vui vầy Kính Sa môn, thật vui thay Kính vì Hiền Thánh cũng tày niềm vui 333 Tuổi già giữ giới, thật vui Viên thành Chánh tín được rồi, vui thay Vui thay trí tuệ tràn đầy Vui thay điều ác xưa, nay chưa từng |
Phẩm Tham Ái (TANHAVAGGO) #24
334 Sống đời phóng dật, buông lung Ái tham lan tỏa chập chùng dây leo Đời này, đời khác bám theo Tựa như khỉ nhảy chuyền đeo trái rừng 335 Sống trên đời phải coi chừng Đừng cho ái dục buộc ràng thân, tâm Khổ đau tăng trưởng khó ngăn Như loài cỏ dại lan tràn gặp mưa 336 Sống trên đời, phải gắng lo Phục hàng ái dục dày vò tâm, thân Khổ sầu tức khắc lìa tan Tựa như giọt nước, lá sen lìa rời 337 Các người tụ họp đây rồi Hãy nghe Ta bảo vài lời lành an Cỏ ái dục, nhổ dứt căn Như loài cỏ dại, gốc tràn khắp nơi Phá tan Ma lực hại người Như cơn nước lũ luôn nuôi cỏ này 338 Cây kia bị đốn chặt rồi Gốc còn, thời vẫn đâm chồi, nảy hoa Ái tùy miên chửa dứt ra Khổ đau thời vẫn đọa sa nhiều đời 339 Bao nhiêu dòng ái chảy trôi Cuốn người theo dục, biết đời nào ra Những ai tâm vẫn kiến tà Trôi theo tham ái, biết là về đâu 340 Dây leo, cỏ dại nhiều sao Cũng như ái dục ngập trào trí, tâm Dùng gươm trí tuệ cắt luôn Gốc căn ái dục, tràn lan dứt liền 341 Người đời ái dục một niềm Mà cầu an lạc, khó tìm được thay Lục trần ám ảnh đêm ngày Tử sanh phải chịu, khổ này phải cam 342 Người nào bị ái dục ràng Sống thời vùng vẫy, kinh hoàng không thôi Thỏ kia đã mắc lưới rồi Mắc vòng ái dục, đời đời khổ đau 343 Sa vào ái dục bẫy giương Hoảng kinh vùng vẫy, thỏ vương lưới ràng Tỷ Kheo hướng cõi Nát Bàn Thoát ly tham dục, một lòng cần chuyên 344 Xuất gia sống ẩn đã nên Lại về cõi dục não phiền mà chi Tưởng rằng đã cởi trói đi Tự mình lại tự trói ghì, khổ thay 345 Trói bằng cây, sắt, dây gai Trí nhân biết chẳng bền tày dục tham Vợ, con, tài sản buộc ràng Là xiềng chắc nhứt, khó đàng thoát ra 346 Trí nhân cũng đã hiểu ra Buộc ràng, sa đọa trói ta thật bền Mặc tình trì xuống, kéo lên Rất ư khó thoát khỏi miền trầm luân Trí nhân quyết cắt dây vương Xuất gia, dục lạc dứt luôn chẳng màng 347 Những người ái dục vẫn tham Tự lao dòng khổ, theo làn lưới dăng Trí nhân dứt mọi buộc ràng Dứt trừ khổ não, Niết Bàn an vui 348 Buông đi quá, hiện, vị lai Vượt qua, tới được cõi ngoài, bờ kia Ý, tâm giải thoát mọi bề Không còn vướng mắc, chẳng hề tử sinh 349 Những người tà ý đầy mình Chỉ mong dục lạc nảy sinh được nhiều Dục này tăng trưởng bao nhiêu Thời dây trói chặt càng bền, càng tăng 350 Muốn xa ác tưởng, đặng an Quán thân bất tịnh, dẹp tan ý tà Dục tham diệt hết trong ta Cắt lìa dây trói ác Ma buộc ghì 351 Quả kia đã chứng, sợ chi Lánh xa tham ái, sạch tì nhiễm ô Nhổ tên sanh tử, chẳng chờ Thân này thân cuối, dứt lìa khổ đau 352 Ái lìa, chẳng chấp thủ đâu Nghĩa, Từ, Pháp, Giảng, trước, sau rõ rành (*) Thân này thân cuối chẳng sanh Đại nhân, đại trí xứng danh trên đời 353 Ta đà hiểu rõ mọi điều Đã hàng phục hết, chẳng theo pháp nào Tự mình giải thoát, đạo cao Nhiễm ô, tham diệt, còn đâu buộc ràng Xa lià hết thảy, xả buông Không thầy, tự ngộ con đường cứu nhân (*) 354 Vật tài bố thí sao bằng Pháp mầu tặng giảng, thế gian tỏ tường Chất vị Pháp, vị nào hơn Niềm vui Pháp hỷ, đâu từng kém chi Diệt trừ tham ái dục đi Tức thời mọi khổ dứt lià, tiêu tan 355 Tiền tài, sở hữu hại thân Người ngu ham thích, khó tầm bờ kia Tham giàu, bị hại vì si Như mình ham của, nỡ đi hại người 356 Cỏ kia hại ruộng, hại vườn Lòng tham dục hại thế nhân, lẽ hằng Cúng dường bậc diệt dục tham Vun trồng quả lớn, việc làm thiện nhân 357 Cỏ kia hại ruộng, hại vườn Lòng sân hận hại thế nhân, lẽ hằng Cúng dường cho bậc lìa sân Vun trồng quả lớn, việc làm thiện nhân 358 Cỏ kia hại ruộng, hại vườn Ngu si làm hại thế nhân, lẽ hằng Cúng dường cho bậc tuệ quang Vun trồng quả lớn, việc làm thiện nhân 359 Cỏ kia hại ruộng, hại vườn Đam mê ái dục, hại đời thế nhân Cúng dường bậc diệt ái tham Vun trồng quả lớn, việc làm thiện thay |
Phẩm Tỷ Kheo (BHIKKUVAGGO)#25
360 Lành thay, chế phục hai tai Lành thay, chế phục được đôi mắt này Lành thay, chế phục mũi đây Lành thay, chế phục luôn ngay lưỡi mình 361 Lành thay, chế phục thân hình Lành thay, chế phục, giữ gìn, ý, ngôn Lành thay, chế phục các căn Tỷ Kheo gìn giữ, thoát đường khổ ngay 262 Người nào làm chủ chân tay Chủ nhân đầu óc, chủ lời phát ngôn Vui thiền, biết đủ, sống đơn Tỷ Kheo danh xứng, quả lành tấn tăng 363 Tỷ Kheo gìn giữ nói năng Thân tâm an tịnh, thoát vòng vô minh Diễn bày Pháp nghĩa rõ ràng Ngôn từ hoà ái, nhẹ nhàng, tịnh yên 364 Tỷ Kheo trú Chánh Pháp viên Một lòng mến Pháp, cần chuyên trì hành Tư duy tưởng Pháp, tâm thành Không rời Chánh Pháp, an lành tiến tu 365 Điều mình chứng được chẳng chê Đừng ganh tị với điều chi của người Tỷ Kheo ganh tị với người Vọng tâm, khó định, hại thôi, ích gì 366 Ít thì chứng ít, chê chi Điều mình chứng được, chớ bì, chớ khinh Siêng năng, thanh tịnh, giữ gìn Tỷ Kheo sống vậy, Chư Thiên khen vì 367 Tỷ Kheo danh sắc kể chi Ta còn không chấp, chấp gì của ta Dứt trừ chấp, thoát bẫy Ma Tỷ Kheo như vậy, xứng là Tỷ Kheo 368 Từ bi, hành giả trú theo Tín thành Phật Pháp, cao siêu một lòng Cảnh an tịch tịnh chứng xong Niết Bàn cảnh giới, thoát vòng tử sinh 369 Tỷ Kheo tát nước thuyền thân Thuyền không còn nước, lướt nhanh tới bờ Nước tham, sân, hận sạch trơ Niết Bàn chứng đắc, cập bờ nhanh sao 370 Dứt mười phiền não thấp cao Dứt năm trói buộc, đoạn bao buộc ràng Tập tu đều đặn năm căn Tỷ Kheo danh xứng, vượt dòng lũ to 371 Tỷ Kheo hãy gắng định tu Không buông lung, phải diệt trừ dục tham Buông lung như nuốt sắt nung Đốt thiêu đau đớn, thời đừng thở than 372 Không thiền, trí thiếu, tất nhiên Trí mà không có, sao thiền được đây Ai mà thiền, trí đủ đầy Niết Bàn cảnh lạc, gần ngay bên mình 373 Bước vào nơi trống, vắng thanh Tỷ Kheo tâm lặng, thiền hành tịnh an Quán theo Chánh Pháp một đàng Hưởng nguồn hạnh lạc của hàng siêu nhân 374 Người nào Chánh Niệm giữ luôn Diệt sanh, ngũ uẩn, tỏ tường lẽ chân Niềm vui an lạc thân tâm Đấy hàng bất tử, chẳng nhầm, chẳng sai 375 Tỷ Kheo có trí hơn đời Luôn luôn nhiếp hộ, chẳng rời các căn Giữ gìn giới luật tinh cần Biết câu tri túc, sống gần thiện nhân 376 Phong tư ứng xử thiện thân Hành vi đoan chánh, mười phần thẳng ngay Hưởng nhiều an lạc vui thay Khổ đau tan diệt, dứt ngay não phiền 377 Hãy nhìn kỹ cánh bông lài Úa thời rơi rụng tàn phai thể nào Tỷ Kheo cũng vậy, tu sao Cho tham, sân úa rơi vào cõi hư 378 Tỷ Kheo tịch tịnh, chuyên tu Giữ tâm chính định, ngôn từ tịnh thanh Giã từ thế vật, dục tham Bậc này tịch tịnh, xứng danh, xứng tình 379 Tỷ Kheo phải tự xét mình Tự mình phản tỉnh, xem mình đục trong Giữ gìn Chánh Niệm, tự phòng Trụ trong an lạc, tâm không muộn phiền 380 Phải nương tựa ở chính mình Tự mình bảo hộ cho mình, chẳng ai Tự mình điều phục mình thôi Như người buôn ngựa luyện tôi ngựa thuần 381 Tỷ Kheo hoan hỷ, Chánh Tâm Tín thành Phật Pháp cao thâm nhiệm mầu An vui, tịch tịnh, thanh cao Thoát vòng tạo nghiệp, diệt bao ưu phiền 382 Tỷ Kheo tuổi nhỏ hữu duyên Thấm nhuần Phật Pháp, năng siêng tu hành Chính là ánh sáng trong lành Như trăng ra khỏi mây đen, sáng ngời |
Phẩm Bà-La-Môn (BRAHMANAVAGGO)#26
383 Bà-la-môn các người ơi Hãy mau tinh tấn, dứt rời dục, tham Uẩn kia rõ lẽ diệt tan Vô vi chứng được Niết Bàn cõi Thiên 384 Được sang bờ nọ an nhiên Cũng nhờ chỉ, quán, pháp thiền trụ an Bà-la-môn trí sáng lan Diệt trừ ràng buộc, sạch tan não phiền 385 Có, không, không, có, chẳng màng Sáu căn chẳng có, sáu trần cũng không Khổ đau diệt, trói buộc buông Bà-la-môn đó, xứng danh gọi liền 386 Dốc lòng, vững chí tu thiền Ẩn cư, dứt sạch lậu phiền, việc xong Đích cao tối thượng chứng thành Bà-la-môn đó, xứng danh gọi rồi 387 Ban ngày chiếu sáng mặt trời Ban đêm nhờ ánh sáng ngời mặt trăng Kiếm cung sáng chói vua quan Định thiền tỏa sáng khắp hàng Sa môn Hào quang của Phật lạ thường Đêm ngày chói sáng, soi chung mọi loài 388 Bà-la-môn dứt ác rồi Người tu thanh tịnh, gọi thời Sa môn Người nào cấu uế sạch trơn Xuất gia bậc ấy, xứng danh cõi trần 389 Bà-la-môn chớ hận sân Dù cho bị đánh, phạm thân, chẳng thù Xấu thay kẻ đánh người tu Mang lòng sân hận, oán thù, xấu hơn 390 Tâm sân hận được chận ngăn Vô cùng lợi ích cho Bà-la-môn Phục điều tham ái, hận sân Khổ đau dứt diệt, tâm thần lạc an 391 Ai thân, miệng, ý, giữ giàng Không gây nghiệp ác, một đàng chánh chân Hộ phòng ba nghiệp tinh cần Bà-la-môn đó, cõi trần xứng danh 392 Nghe ai thuyết Chánh Pháp lành Giảng về Phật Pháp cho mình hiểu thêm Một lòng kính lễ bậc trên Như người thờ lửa cung nghinh lửa thần 393 Bà-la-môn, tựa chánh nhân Chẳng vì bện tóc, chẳng cần gốc sanh Thật, chân, chánh trí, tịnh thanh Bà-la-môn mới xứng danh ở đời 394 Kẻ ngu tu bện tóc tai Da dê làm áo cũng hoài, ích chi Nội tâm phiền não, u mê Chỉ lo trang điểm, thoát ly khó vời 395 Ai choàng phấn tảo rã rời Người thời gầy guộc, da thời nổi gân Trong rừng tu định, độc thân Bà-la-môn đó, thập phần xứng danh 396 Bà-la-môn chẳng xứng danh Nếu nhờ chủng tộc, mẹ sanh truyền đời Chỉ nên dùng chữ thường thôi Nếu còn chấp trước, chẳng nguôi não phiền Dứt xong chấp trước, não phiền Bà-la-môn tánh, ta liền gọi tên 397 Chẳng còn lo sợ đã nên Mười điều khổ não muộn phiền dứt xong Tâm không đắm trước buộc ràng Bà-la-môn tánh, ta hằng gọi tên 398 Bỏ đai sân hận một bên Bỏ cương ái dục, tùy miên, kiến tà Vô minh hết, sáng suốt ra Bà-la-môn tánh, chính là danh xưng 399 Chẳng sinh ác ý, hận sân Dù cho bị mắng, phạm thân, phạt hình Có quân bi, nhẫn, tinh binh Bà-la-môn tánh, xứng tình, xứng danh 400 Hạnh thời đầy đủ, lìa sân Một lòng trì giới, bỏ tham dục rồi Phục điều thân cuối này thôi Bà-la-môn ấy, sáng ngời tính danh 401 Tựa như nước đổ lá sen Tựa như hạt cải, đầu kim, đôi đường Những người ái dục chẳng vương Bà-la-môn tánh, ta thường gọi tên 402 Ai mà tự giác, tự rèn Diệt trừ gốc khổ, não phiền chẳng sinh Xong bề giải thoát, nhẹ mình Bà-la-môn tánh, xứng tình làm sao 403 Những người trí tuệ thâm cao Tỏ tường Chánh Đạo, đạo nào ngụy hư Cảnh Vô thượng đạt nhờ tu Bà-la-môn ấy, danh từ đúng thay 404 Tục, Tăng chẳng lẫn với ai Chẳng là thế tục, chẳng vời xuất gia Độc thân, lìa dục ái Ma Người nào như vậy, chính Bà-la-môn 405 Dời đao, bỏ trượng sát thương Chúng sinh yếu kém, kiên cường, mặc ai Chẳng sai giết, chẳng giết ai Bà-la-môn đó, chính người chân tu 406 Sống thân thiện giữa địch thù Giữ ôn hòa giữa mây mù hung hăng Không vương mắc giữa mắc giăng Bà-la-môn đó, xứng hàng chân nhân 407 Ai mà lìa bỏ tham, sân Này lòng kiêu mạn, này tâm tị hiềm Tựa như hạt cải, đầu kim Bà-la-môn ấy, xứng tên gọi rồi 408 Ôn hòa, từ ái một lời Dù cho xúc phạm một người cũng không Nói điều lợi ích, thật chơn Bà-la-môn ấy, tấm lòng sáng chưng 409 Người tu, trộm cắp chẳng vương Dù cho vật xấu, đẹp, thường, dửng dưng Không cho không lấy, chánh chơn Bà-la-môn ấy, tấm gương tuyệt vời 410 Người không dục vọng nhúm khơi Đời này thanh tịnh cũng tày đời sau Đó là giải thoát nhiệm mầu Bà-la-môn đó, hàng đầu danh xưng 411 Những người trí tuệ khai thông Không còn tham ái, chẳng còn nghi nan Chứng vào cảnh giới Niết Bàn Bậc chân tu đó, hàng Bà-la-môn 412 Những ai sống cõi thế gian Không vương thiện ác, không màng sầu vui Tâm tư thanh tịnh tuyệt vời Bà-la-môn đó, người người vinh danh 413 Đoạn trừ ái dục, tái sanh Như vầng trăng sáng trong lành chiếu soi Bụi không gợn, vẻ sáng ngời Bà-la-môn đó, người đời xướng danh 414 Vượt qua phiền não, dục tham Luân hồi nhiếp phục, Niết Bàn thấy ra Không nghi, vướng mắc, đắm sa Định thiền, tịch tịnh, đó Bà-la-môn 415 Đời này dứt bỏ dục luôn Xuất gia học đạo, Sa môn điều mình Không cho tham dục phát sinh Bà-la-môn đó, xứng danh cõi trần 416 Đời này dứt bỏ ái luôn Xuất gia học đạo, Sa môn điều mình Không cho dục ái phát sinh Bà-la-môn đó, xứng danh ở đời 417 Thoát xong ràng buộc con người Thoát luôn ràng buộc cõi trời, lìa xa Mọi điều ràng buộc thoát ra Thánh nhân này đúng là Bà-la-môn 418 Những điều ưa ghét dứt luôn Ái tham, chấp thủ, sạch trơn chẳng còn Phục điều ngũ uẩn tinh thuần Bà-la-môn đó, thập phần xứng danh 419 Tỏ tường sống chết chúng sanh Nhưng không chấp trước, mắc vành trói ta Sáng tâm giác, khéo vượt qua Thánh nhân này đúng là Bà-la-môn 420 Người hành giả, bậc Thánh nhân Mà người, Trời, quỷ khó tầm chốn nơi Thọ sanh phiền não dứt rồi Bà-la-môn đó, khó ai sánh vì 421 Vị lai, quá khứ, có chi Hiện thời cũng chẳng có gì trong tay Không chấp thủ, khéo xả thay Bà-la-môn đó, người này Thánh nhân 422 Như trâu chúa có sức thần Như người hùng thắng uẩn phiền não Ma Như người tẩy sạch uế nhơ Trí tâm giác ngộ, ấy Bà-la-môn 423 Mâu Ni kiếp trước tỏ tường Giới Thiên, cõi đọa, đã từng thực hư Tái sinh đã bị diệt trừ Bậc Vô Thượng Trí, tâm tư thắng tà Viên thành thiện nghiệp tự ta Chân tu người đó, ấy Bà-la-môn |